Ngày nay chúng ta có nhiều bằng chứng khoa học để xác nhận rằng loạn năng cương không những là vấn đề tình dục mà còn là một triệu chứng báo trước căn bệnh tim mạch. Vì vậy cần có thái độ điều trị tích cực hơn chứng bệnh này.
Mối liên kết giữa loạn năng cương và bệnh tim mạch
Ảnh minh họa. |
Đến nay, các nghiên cứu đã cho thấy một mối liên hệ giữa loạn năng cương và các bệnh tim mạch. Các yếu tố liên quan đến loạn năng cương gồm: tuổi, tuổi càng cao mắc loạn năng cương càng nhiều; bệnh tăng huyết áp có nguy cơ của chứng loạn năng cương gia tăng 1,5 lần; bệnh tiểu đường: tăng gấp 3 loạn năng cương; tăng cholesterol huyết và chứng nghiện thuốc lá thì nguy cơ loạn năng cương tăng gấp đôi; với một nồng độ HDL-cholesterol trong máu hạ cũng tăng nguy cơ loạn năng cương. Đó cũng là các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch.
Đối với các bệnh nhân bị bệnh động mạch vành, tỷ lệ mắc bệnh loạn năng cương biến thiên từ 44% - 65%. Trong giai đoạn tiến triển của bệnh vữa xơ động mạch, loạn năng cương ảnh hưởng đến 86% các bệnh nhân động mạch vành và lên đến 87% những bệnh nhân bị bất túc động mạch ngoại biên.
Khoa học đã phát hiện ra mối liên hệ giữa loạn năng cương và các bệnh tim mạch là rối loạn chức năng nội mô. Nội mô điều hòa nhiều chức năng sinh lý, như trương lực huyết quản, khả năng kết dính tiểu cầu, sự đông máu, phản ứng viêm, cũng như tính thẩm thấu tế bào. Nội mô tiết ra các chất trung gian tại chỗ để điều hòa sự tưới máu mô.
Nitric Oxide (NO) là một trong những chất trung gian huyết quản có vai trò quan trọng nhất để chống vữa xơ động mạch nhờ tác dụng giãn mạch mạnh và ức chế sự dính kết tiểu cầu. NO còn có vai trò sinh lý quan trọng trong sự thư giãn mạch máu của tuần hoàn dương vật và trong sự phát sinh sự cương cứng.
Khi cơ thể sản xuất không đầy đủ NO hoặc hoạt tính bị giảm là cơ sở bệnh sinh của chứng loạn năng cương. Đây cũng là điểm chung giữa loạn năng cương và các bệnh tim mạch, nếu kết hợp với những yếu tố nguy cơ tim mạch thì khả năng mắc bệnh càng cao.
Những bệnh nhân loạn năng cương, không có yếu tố nguy cơ tim mạch cũng như các triệu chứng tim mạch, phần lớn đều có một thiếu sót trong sự giãn của những động mạch cánh tay. Những chất chỉ dấu này tăng cao ở bệnh nhân loạn năng cương mà không có những biểu hiện tim mạch khác.
Vì loạn năng nội mô đóng một vai trò sinh bệnh chủ yếu của chứng vữa xơ động mạch, cho nên loạn năng cương là một biểu hiện sớm của bệnh mạch máu thầm lặng không triệu chứng. Do đó những bệnh nhân bị loạn năng cương có nguy cơ cao phát triển một bệnh tim mạch.
Một công trình nghiên cứu đã so sánh nồng độ CRP, chức năng nội mô của động mạch cánh tay và những nốt vôi hóa động mạch vành trên 70 bệnh nhân bị loạn năng cương mà không có tiền sử về các bệnh tim mạch với 73 người bình thường. Hai nhóm này có các đặc điểm về tuổi và các yếu tố nguy cơ tim mạch như nhau. Kết quả cho thấy có sự tăng cao đáng kể của nồng độ CRP và giảm giãn mạch của động mạch cánh tay và sự hiện diện của những vôi hóa động mạch vành nhiều hơn ở những bệnh nhân loạn năng cương.
Từ đó họ kết luận rằng: chứng loạn năng cương báo trước bệnh tim mạch khi chưa có triệu chứng lâm sàng, độc lập đối với sự hiện diện của những yếu tố nguy cơ tim mạch và bệnh tim mạch sẽ trầm trọng hơn ở bệnh nhân có loạn năng cương.
Một nghiên cứu khác thực hiện trên 300 bệnh nhân có các bệnh tim mạch thấy rằng hầu hết họ có rối loạn cương từ 3 năm trước khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của bệnh tim mạch. Chứng loạn năng cương càng nặng khi số các động mạch vành bị hẹp càng nhiều.
Biểu hiện sớm của chứng rối loạn cương được giải thích bởi lý thuyết "cỡ động mạch". Một mảng vữa xơ động mạch sẽ gây nên một mức độ tắc khác nhau tùy theo đường kính của động mạch bị thương tổn. Do đó sự giảm luồng máu trong một động mạch nhỏ phản ánh triệu chứng lâm sàng sớm hơn nhiều so với một động mạch lớn hơn.
Người ta thấy rằng phải giảm khoảng 40% đường kính động mạch thì các triệu chứng mới xuất hiện. Sự bất lực tình dục được biểu hiện trước một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu não vì mạch máu của dương vật nhỏ hơn nhiều so với mạch động mạch vành và động mạch não.
Thái độ xử trí
Khi nam giới bị chứng loạn năng cương, họ cần phải được thăm khám một cách hệ thống để phát hiện những yếu tố nguy cơ tim mạch, nhất là bệnh tiểu đường và những dấu hiệu của những bệnh tim mạch được liên kết.
Những công trình nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng hằng ngày các inhibiteur de PDE5 có thể phục hồi chức năng nội mô. Do đó người ta thấy nên điều trị phòng ngừa để tránh cho những bệnh nhân này bị tai biến mạch máu nghiêm trọng, thường gây tàn phế hoặc tử vong.
Các bệnh nhân được điều trị bởi các inhibiteur de PDE5 để cải thiện chức năng cương ít bị nhồi máu cơ tim hơn so với nhóm đối chứng.
(Theo BS. Phạm Thị Phương // Sức khỏe&Đời sống)