Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình

Sơ chế mũ cao su ở Công ty Cao su Phú Riềng. Ảnh: Lê Toàn.

Để không mắc phải cái bẫy thu nhập trung bình, trước mắt giới doanh nhân Việt Nam, đặc biệt là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trẻ, là những thách thức mới, to lớn.

Bẫy thu nhập trung bình là khái niệm chỉ tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển.

Việt Nam từ năm 2008 đã có mức thu nhập bình quân vượt hơn 1.000 đô la Mỹ/người và Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2009 đã đưa vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình. Từ đó đã có một loạt cảnh báo từ các nhà kinh tế về cái bẫy của nước thu nhập trung bình mà Việt Nam có thể mắc phải.

Thực tế, có nhiều nền kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập trung bình nhưng có rất ít trong số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc, còn lại một loạt nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines loanh quanh không thể vượt lên được. Khó khăn đến mức mà một nhà kinh tế người Nhật gọi bẫy thu nhập trung bình là cái trần thủy tinh của các nước ASEAN (Kenichi Ohno, 2010).

Hàng chục năm trước, Thái Lan, hay Malaysia cũng không nghĩ rằng họ sẽ bị mắc kẹt lâu như vậy. Philippines là quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình đã không thể vượt qua ngưỡng 2.000 đô la Mỹ trong nhiều thập kỷ. Indonesia cũng mất khoảng thời gian hơn một thập kỷ để từ trên 1.000 đô la Mỹ vượt lên hơn 2.000 đô la Mỹ. Còn Thái Lan thì bất ổn kéo dài từ sau 2005 và cũng mất hơn hai thập kỷ mới vượt qua con số 3.000 đô la Mỹ nhưng vẫn chưa bước vào được nhóm nước có mức thu nhập trung bình của trung bình.

Malaysia và Thái Lan được cho là đã không nội địa hóa được giá trị gia tăng và năng lực quản lý. Nền kinh tế quá phụ thuộc vào các công ty nước ngoài, thiếu các thương hiệu nội địa và khu vực tư nhân vẫn yếu kém sau nhiều thập kỷ mở cửa.

Nguyên nhân của tình trạng vướng vào bẫy trung bình được mô tả như là (i) sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kích thích tăng trưởng; (ii) tiếp tục tình trạng của một nền kinh tế gia công (nền kinh tế trong nước không đủ sức tạo ra giá trị gia tăng mới để tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu; sự thống trị của các hãng mang thương hiệu nước ngoài); (iii) sự phân hóa thu nhập dẫn đến phân cực và bất ổn.

Quá trình phát triển từ thu nhập thấp đến thu nhập trung bình, bản thân nó cũng ngầm chứa nhiều yếu tố là nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy trung bình. Đó là sự hủy hoại môi trường sống phải mất nhiều nguồn lực và thời gian khắc phục (có yếu tố vĩnh viễn không phục hồi được), sự thay đổi môi trường xã hội (kết cấu văn hóa, kết cấu xã hội biến đổi trong thời gian quá ngắn) dễ tạo ra những xung đột; sự tự tin thái quá của các tầng lớp dẫn dắt đến thành công, tâm lý đòi tưởng thưởng công trạng biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm.

20 hay 30 năm tới?

Ngân hàng Thế giới sử dụng tiêu chí GNI tính trên đầu người để phân loại thu nhập theo đó các nền kinh tế có GNI tính trên đầu người từ 975 đô la (năm 2008) trở xuống là thu nhập thấp (LIC: Low Income Countries), từ 976 đô la đến 11.906 đô la là thu nhập trung bình và trên 11.906 đô la là thu nhập cao (High Income Countries).

Trong các nền kinh tế thu nhập trung bình thì từ mức 3.855 đô la phân chia thành trung bình thấp (Low Midle Income) và trên đó là trung bình cao (Up Midle Income).

(Nguồn: World Bank: World Development Report 2010)

Chúng ta mất 20 năm (từ 1990) để từ mức thu nhập chưa đến 100 đô la Mỹ vượt lên trên 1.000 đô la Mỹ người. Đó là một chặng đường dài với sự đóng góp của nhiều lớp lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam: Lớp các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tiên phong trong thời kỳ đổi mới, các nhà lãnh đạo trong giai đoạn chuyển đổi, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp thời kỳ hội nhập với nỗi khát khao đưa đất nước vượt qua nghèo khó, tiến đến giàu mạnh.

Câu hỏi đặt ra lúc này là liệu trong 20 hay 30 năm tới, những doanh nhân trẻ của ngày hôm nay có thể đưa thu nhập tăng lên hơn 10 lần để nước ta vượt qua bẫy thu nhập trung bình, gia nhập vào nhóm nước phát triển?

Đây không chỉ là khát vọng của dân tộc mà còn là thách thức cần vượt qua để tồn tại.

Mặc dù kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh, thu nhập tính trên đầu người trong 20 năm qua tăng 10 lần nhưng so với các nền kinh tế trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Philippines thì Việt Nam vẫn còn ở trình độ thấp hơn nhiều. So với Ấn Độ, Việt Nam thấp hơn không nhiều về thu nhập tính trên đầu người nhưng về trình độ công nghệ, tiềm lực quân sự và năng lực quốc gia thì khoảng cách là xa. (Việt Nam bằng 1/10 về diện tích, 1/13 về dân số, nhưng chỉ bằng 1/17 về quy mô kinh tế).

So với Trung Quốc thì khoảng cách chênh lệch còn lớn hơn nhiều lần. Về quy mô dân số Việt Nam bằng 1/15 so Trung Quốc, diện tích bằng 1/30, thu nhập tính trên đầu người chỉ bằng 1/3 và quy mô nền kinh tế chỉ bằng 1/50 và khoảng cách ngày càng rộng ra. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc và gần đây cũng thấp hơn Ấn Độ.

Sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc và tiếp theo là Ấn Độ trong 10 năm qua đang làm thay đổi bức tranh kinh tế toàn cầu. Với chúng ta, đó là những bài học cần nghiên cứu thấu đáo. Cũng rất cần nghiên cứu tình trạng của các nước trong khu vực, đặc biệt trong khối ASEAN, những nước đã đi trước và vì sao bị mắc kẹt trong thời gian khá lâu.

Thách thức!

Vấn đề cũng đang xuất hiện là tình trạng thiếu hụt lao động. Việc tuyển dụng lao động đã trở nên hết sức khó khăn không chỉ với lao động kỹ thuật mà cả với lao động giản đơn. Sức ép tăng lương ngày càng gia tăng khiến Việt Nam gặp khó khăn trong cạnh tranh về các hàng hóa xuất khẩu ở phân khúc chi phí thấp. Các cuộc đình công liên tiếp xảy ra. Điều này cũng tiềm ẩn khả năng các nhà đầu tư sẽ tìm đến các nước có nguồn lao động rẻ hơn, trong khi chúng ta vẫn chưa thể có được nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật cao để tiếp cận phân khúc cao hơn trong chuỗi giá trị.

Trong 20 năm, từ 1990-2009 tỷ lệ tăng dân số trung bình khoảng 1,4% năm nhưng lao động làm việc tăng trung bình 2,5% năm, thất nghiệp cũng đã giảm từ tỷ lệ 6-7% trong các năm 1999-2000 còn dưới 5% từ 2006 đến nay. Tiếp tục xu hướng này trong 10 năm tới chúng ta sẽ mắc kẹt trong tình trạng thiếu hụt nhân công nghiêm trọng ở cả hai phân khúc: lao động tri thức lẫn lao động phổ thông nhưng sức ép về công ăn việc làm vẫn thường xuyên xuất hiện. Điều này không chỉ liên quan đến các chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ tay nghề, đến cơ cấu nền kinh tế mà cả chính sách dân số.

Nhiều nghiên cứu cho thấy dân số là nguồn lực tăng trưởng của đất nước, việc kiềm chế tăng trưởng dân số dường như chỉ có ý nghĩa không lớn trong thời kỳ đầu, lúc còn nghèo, nhưng sau đó có thể là nhân tố cản trở sự phát triển.

Lãng phí tài nguyên, hủy hoại môi trường là đe dọa đến tăng trưởng trong tương lai. Các quan niệm về cạnh tranh theo quan điểm của M. Porter được ủng hộ ở chỗ nền kinh tế không nên quá dựa vào lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên.

Cần làm gì?

Nghiên cứu quá trình phát triển của Hàn Quốc, Đài Loan với nền kinh tế ASEAN bị mắc vào bẫy trung bình, nhà nghiên cứu kinh tế người Nhật Kenichi Ohno cho rằng các nền kinh tế phụ thuộc vào luồng vốn FDI bên ngoài, phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên thì trước sau cũng bị sa lầy. Để tránh tình trạng trên các nền kinh tế cần nỗ lực để tạo ra giá trị vốn con người, tính siêng năng, kỷ luật và sáng tạo.

Chính sách cần tạo ra sự động viên mới và sáng tạo cho các thành phần kinh tế trong nước, tạo ra giá trị bản địa. Hiện nay ở Việt Nam, thành phần kinh tế FDI chiếm 19% trong GDP nhưng chỉ sử dụng chưa tới 4% tổng số lao động và cũng chiếm tới một phần ba tổng vốn đầu tư. Suất đầu tư của thành phần kinh tế có vốn FDI rất cao nhưng hiệu quả thì không cao và đang có xu thế giảm dần. Thành phần kinh tế tư nhân chiếm khoảng 46% GDP, sử dụng 85% lực lượng lao động được trang bị ít hơn, chỉ chiếm 35% trong tổng vốn đầu tư. Xét hiệu quả kinh tế tính trên đồng vốn đầu tư thì thành phần kinh tế tư nhân cao hơn gấp đôi so mức trung bình của nền kinh tế. Đây chính là tiềm năng tăng trưởng và cải thiệu hiệu quả đầu tư của nền kinh tế.

Tóm lại, hai điểm mấu chốt để phá vỡ bẫy thu nhập trung bình này, theo một số khuyến nghị là: (i) hoạch định chính sách tốt ở khu vực công và, (ii) có khu vực tư nhân năng động. Các nhà hoạch định chính sách, công chức, viên chức làm việc ở khu vực công phải là những người tận tâm, có tầm nhìn và có kỹ năng quản trị đất nước. Tận tâm là yếu tố quan trọng bậc nhất, nó vẫn phải là phẩm chất cốt lõi khi nước ta đã bước vào nước có thu nhập trung bình.

Bẫy thu nhập trung bình là một khái niệm tương đối, thay đổi theo thời gian. Đó không phải là trần định mệnh không thể vượt qua. Ở tất cả các giai đoạn phát triển đều có những khó khăn khác nhau. Vượt qua được hay không phụ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia và sức mạnh của cộng đồng doanh nghiệp, năng lực phối hợp giữa hai khu vực trong tầm nhìn và quyết định chính sách.

Chỉ dựa vào nhiệt tình sẽ không đủ, nhưng thiếu nhiệt tình và tâm huyết thì sẽ không leo được bất cứ bậc thang nào.

(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)

 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi