Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Kinh tế Việt Nam 2010: Gánh nặng dồn lên vai chính sách tiền tệ?

Ngân hàng nhà nước sẽ điều hành lãi suất thỏa thuận phù hợp với cơ chế thị trường
(Theo Xuân Thanh // Tin Chính phủ)

Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu vừa trao đổi với báo chí xung quanh một số vấn đề dư luận quan tâm hiện nay như chỉ số giá tiêu dùng quý I tăng 4,12%, thanh khoản của hệ thống ngân hàng, tỷ giá, lãi suất, thị trường ngoại hối, sàn vàng.

Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu - Ảnh: Chinhphu.vn

Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu cho biết, thực hiện những giải pháp mà Chính phủ đề ra nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%, NHNN sẽ triển khai các giải pháp điều hành lãi suất thỏa thuận phù hợp với cơ chế thị trường.

Cần phải thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô

Thưa Thống đốc, dư luận đang quan tâm, lo ngại khi chỉ số giá tiêu dùng quý I tăng 4,12%, cao hơn cùng kỳ các năm khác, nhất là thông thường chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 giảm hoặc chỉ tăng nhẹ, nhưng năm nay đã tăng đến 0,75%. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?

Theo Công bố của NHNN, tăng trưởng tín dụng năm 2009, tháng 1: 0,65%, tháng 2: 1,16%, tháng 3: 4,11%, tháng 4: 4,33%, tháng 5: 4,01%, tháng 6: 4,4%, tháng 7: 2,75%, tháng 8: 2,47%, tháng 9: 3,46%, tháng 10: 2,33%, tháng 11: 2,01%, tháng 12: 0,72

Quý I/2010 dư nợ tín dụng tăng 3,34% so với cuối năm 2009.

Theo Nghị quyết số 36/2009/QH12 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, mục tiêu đặt ra là tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế 6,5%, kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng không quá 7%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 năm nay tăng 0,75%, tính chung 3 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,12%, cao hơn so với cùng kỳ năm các năm gần đây (2006: 2,8%; 2007:3,02%; 2008: 9,19%; 2009: 1,32%).

Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao chủ yếu do nhu cầu tăng cao trong dịp tết, giá cả nhập khẩu tăng, nhà nước điều chỉnh một số mặt hàng làm tăng giá thành sản phẩm. Yếu tố tiền tệ tác động tới lạm phát không lớn, do từ tháng 7/2009, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức thấp (năm 2009, tháng 1: 0,65%, tháng 2: 1,16%, tháng 3: 4,11%, tháng 4: 4,33%, tháng 5: 4,01%, tháng 6: 4,4%, tháng 7: 2,75%, tháng 8: 2,47%, tháng 9: 3,46%, tháng 10: 2,33%, tháng 11: 2,01%, tháng 12: 0,72 và quý I/2010 dư nợ tín dụng tăng 3,34% so với cuối năm 2009).

Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành phân tích, làm rõ những nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức cao và thực hiện các giải pháp đồng bộ để kiểm soát giá cả hàng hóa, trong đó chú trọng các giải pháp đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế như xuất - nhập khẩu, nhập siêu, chi tiêu ngân sách nhà nước, quản lý giá thị trường. Các giải pháp này được triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt thì chắc chắn thực hiện được mục tiêu Quốc hội đề ra.

Mục tiêu năm 2010 là kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng không quá 7% và đảm bảo tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%. Để thực hiện các mục tiêu này, dường như gánh nặng dồn lên vai chính sách tiền tệ?

Không hẳn như thế, để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết của Quốc hội, cần phải thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa, tiền tệ, thương mại và giá cả…; trong đó, nhiệm vụ của chính sách tiền tệ khá nặng nề.

Nhận thức được điều đó, ngay từ đầu năm, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng với mục tiêu là kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 20% và tín dụng khoảng 25%, điều tiết lãi suất và tỷ giá theo hướng ổn định.

Trong quý I/2010, NHNN đã điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trưởng mở, tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD và nền kinh tế; giữ ổn định các mức lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, tái chiết khấu; áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung, dài hạn bằng VND, điều chỉnh tỷ giá tăng cho phù hợp với cung – cầu thị trường và mục tiêu kinh tế vĩ mô. Về cơ bản hoạt động ngân hàng an toàn, đảm bảo khả năng thanh toán, lãi suất và tỷ giá diễn biến theo xu hướng ổn định.

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục nâng cao chất lượng công tác dự báo kinh tế vĩ mô và tiền tệ; bám sát các mục tiêu tiền tệ đã được xác định để điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác theo chỉ đạo của Chính phủ, góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong năm 2010.

Điều hành lãi suất thỏa thuận phù hợp với cơ chế thị trường

Người dân  đã tin tưởng vào hệ thống ngân hàng

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, lãi suất đang có vấn đề nhưng các biện pháp chưa đạt hiệu quả cao?

Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chưa vững chắc, rủi ro hệ thống tài chính vẫn có nguy cơ xảy ra; kinh tế trong nước phục hồi nhưng có nhiều thách thức và khó khăn, áp lực đối với tín dụng ngân hàng vẫn còn lớn.

Tuy nhiên, hệ thống NHTM nước ta không đồng đều, chỉ có vài ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán, có chênh lệch lớn về quy mô, có ngân hàng tổng tài sản gần 500.000 tỷ đồng, một số ngân hàng quy mô nhỏ, tổng tài sản chỉ vài ngàn tỷ đồng, nhưng chịu sự chi phối và điều chỉnh chung bởi một hệ thống văn bản pháp luật.

Trong thời gian cuối năm 2009 và dịp Tết Nguyên đán Canh Dần, các NHTM gặp khó khăn về thanh khoản do một số NHTM dự trữ thanh toán thấp và tổ chức kinh tế, Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội rút khoảng 60.000 tỷ đồng để giải ngân theo tính quy luật hàng năm. NHNN đã hỗ trợ kịp thời để đảm bảo khả năng an toàn thanh khoản. Vào những ngày giáp Tết, NHNN hỗ trợ các NHTM lên đến 70.000 tỷ đồng nhưng rút dần về sau Tết Nguyên đán.

Có ý kiến phê bình chúng tôi do không bơm mạnh thêm lượng tiền cung ứng trong tháng 1 và 2 nên thanh khoản và tín dụng tăng chậm, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng có ý kiến đánh giá nếu bơm tiền cung ứng mạnh thêm trong hai tháng đầu năm sẽ tác động mạnh làm tăng chỉ số giá tiêu dùng và có thể cao hơn 4,12%.

Trong quý I/2010, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng có xu hướng tăng dần, tín dụng tăng 3,34%. Huy động vốn đang có xu hướng tăng trở lại, đến cuối tháng 3 tăng 3,8% so với cuối năm 2009, đặc biệt là tiền gửi của dân cư tăng 9,2% cho thấy người dân tin tưởng vào hệ thống ngân hàng. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng là 3,34% so cuối năm 2009, tương ứng với quý I cùng kỳ các năm diễn biến bình thường (Quý I/2006 tăng 0,9%, quý I/2007 tăng 4,51%).

Đối với lãi suất, chúng ta áp dụng lãi suất cơ bản đúng theo Bộ luật Dân sự và Luật NHNN, nhưng thị trường thì phải theo quan hệ cung-cầu. Bất cập này  cùng với việc chưa điều chỉnh kịp thời các quy định của pháp luật, công tác thanh tra, giám sát đạt hiệu quả chưa cao, gây nên sự thiếu minh bạch trong khuyến mại huy động vốn, thu phí cho vay.

Thực hiện những giải pháp của Chính phủ nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%, NHNN sẽ triển khai các giải pháp điều hành lãi suất thỏa thuận phù hợp với cơ chế thị trường.

Nếu thực hiện cơ chế cho vay ngắn hạn bằng VND theo lãi suất thỏa thuận, huy động vốn do cạnh tranh có thể gây ra lãi suất tăng cao không?

Hiện nay, lãi suất huy động và cho vay của các NHTM đang ở mức cao, xét theo lãi suất thực dương và khả năng hấp thụ của nền kinh tế.

 NHNN đã và đang thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ để ổn định lãi suất thị trường theo xu hướng giảm dần như tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ, chỉ đạo các NHTM Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam phát huy mạnh mẽ và động viên tích cực các ngân hàng hội viên góp phần quan trọng trong việc ổn định, phát triển hệ thống ngân hàng.

 Tôi tin chắc các NHTM Việt Nam, với ý thức chính trị của mình hoạt động vì lợi ích chung của đất nước, trong đó có lợi ích của ngân hàng mình; các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh luôn luôn đồng thuận chính sách của Chính phủ; hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy hoạt động tốt đẹp này.

Sẽ kiểm tra thông tin sàn vàng "biến tướng"

Thưa Thống đốc hiện nay vấn đề tỷ giá, thị trường ngoại hối, sàn vàng cũng là những vấn đề được dư luận quan tâm?

Như chúng ta đã biết, sau khi điều chỉnh tỷ giá, các TCTD được giao dịch tối đa 19.100 VND/USD. Và với những biện pháp Chính phủ yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho NHTM, kêu gọi các doanh nghiệp, người dân dùng hàng Việt Nam, đến nay, diễn biến thị trường ngoại tệ theo chiều hướng tích cực, nhiều NHTM đã cân đối được ngoại tệ.

Chúng tôi rất hoan nghênh quyết tâm chính trị của tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, các doanh nghiệp đồng thuận và chấp hành tuyệt đối ý kiến chỉ đạo của Chính phủ. Các doanh nghiệp đã bán ngoại tệ cho các ngân hàng, tạo điều kiện tăng thanh khoản trên thị trường ngoại hối, những ngày gần đây dân cư cũng bắt đầu cân nhắc việc bán ngoại tệ lấy tiền đồng gửi vào ngân hàng, sức ép tăng tỷ giá được giải tỏa.

Theo Nghị quyết của Chính phủ, tới đây Bộ Công Thương phối hợp với NHNN, Bộ Tài chính sẽ có giải pháp mạnh mẽ để kiểm soát nhập siêu và chính sách khuyến khích xuất khẩu...Chúng tôi tiếp tục kiểm tra chặt chẽ việc bán ngoại tệ của NHTM, nếu không phù hợp với chủ trương Chính phủ thì sẽ xem xét xử lý nghiêm minh, kịp thời.

Đối với sàn vàng, như chúng ta biết các NHTM đã chấp hành nghiêm chỉnh đóng cửa đúng thời gian quy định, việc gia hạn thêm 3 tháng là do qua thực tiễn có một số ngân hàng còn trạng thái mở tương đối lớn, nên phải có thêm thời gian tất toán tài khoản. Mấy ngày qua có vài thông tin một số doanh nghiệp hoạt động sàn vàng (doanh nghiệp không thuộc NHTM) chuyển sang hình thức khác, báo chí gọi là “biến tướng”, chúng tôi sẽ phối hợp các ngành hữu quan kiểm tra nếu có thì xử lý theo pháp luật.

Về huy động vàng tại các NHTM, việc này là theo đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên rất rủi ro. Gần đây các NHTM đã hạ lãi suất huy động gần bằng 0%, NHNN cũng đã nghiên cứu theo hướng không cho phép chuyển đổi vốn huy động bằng vàng sang tiền đồng và có thể không thực hiện hoạt động huy động và cho vay bằng vàng vì hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Đối với diễn biến giá vàng, chúng tôi đã có nhiều giải pháp, trong đó có cả việc phối hợp với một số doanh nghiệp kinh doanh vàng lớn, đã rút ngắn khoảng cách giá trong nước và giá quốc tế từ gần 2 triệu đồng/lượng xuống còn vài trăm ngàn đồng/lượng, tiếp tục áp dụng các giải pháp để cơ bản giá trong nước và quốc tế tương đồng nhau. Theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Chính phủ ký ban hành Nghị định quản lý và kinh doanh vàng trong thời gian tới.


Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: GDP quý 1 tăng 5,7-5,9%
( Theo ANH QUÂN // Vneconomy )

“Việt Nam là một trong số ít các nước có nền kinh tế tăng trưởng và đã phục hồi lên mức 5,7-5,9% vào quý 1/2010”.

Đó là phát biểu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu tại hội nghị “Tăng trưởng và giảm nghèo hậu khủng hoảng tại các nước đang phát triển châu Á”, do Chính phủ Việt Nam và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tổ chức ngày 22/3.

Như vậy, căn cứ theo thông tin từ Thống đốc, tốc độ tăng trưởng GDP quý 1/2010 của Việt Nam đã thấp hơn quý 4/2009 trước đó khoảng 1 điểm phần trăm (so với 6,9%). Tuy nhiên, nếu so với cùng kỳ năm 2009, GDP quý 1/2010 cao hơn khoảng 2,6-2,8 điểm phần trăm.

Phát biểu trước lãnh đạo cấp cao của IMF, Ngân hàng Thế giới (WB), các đại sứ nước ngoài tại Việt Nam và chuyên gia kinh tế đến từ 16 quốc gia trên thế giới, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu nói: “Cho tới nay, Việt Nam đã đối phó với cuộc khủng hoảng toàn cầu tương đối tốt. Đầu năm 2009, hoạt động kinh tế suy giảm mạnh. Tuy nhiên, nền kinh tế đã phục hồi tích cực trong những quý sau, với sự hỗ trợ của chương trình kích cầu mạnh mẽ bao gồm việc nới lỏng chính sách tiền tệ và gói kích thích tài khóa lớn”.

Năm 2009, trong bối cảnh nhiều nền kinh tế lớn thế giới tăng trưởng âm, Việt Nam là một trong số ít các nước có tăng trưởng, đạt mức 5,32% với chỉ số giá tiêu dùng cả năm được khống chế ở mức tăng 6,88%.

Tình hình xuất khẩu những tháng cuối năm 2009 được cải thiện rõ rệt, giúp kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoảng 57 tỷ USD. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm qua vẫn ở mức khả quan với 21,5 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2009 giảm xuống còn khoảng 12%, và chỉ tiêu phấn đấu cho năm 2010 là giảm xuống còn 10-11%.


Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Mọi người lo một thì chúng tôi lo mười!
( Giang Oanh thực hiện //Chinhphu)

 Thống đốc NHNN Nguyễn Văn GiàuTrong những ngày đầu năm 2010, nhìn lại một năm qua đầy khó khăn, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Văn Giàu đã chia sẻ về những điều đã làm được và cả những điều chưa thật thành công trong năm 2009 để hướng tới năm 2010 với thành công mới.

Thưa Thống đốc, xin ông cho biết năm 2009 điểm nhấn quan trọng nhất trong điều hành chính sách là gì?

Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Có lẽ trong nhiều công việc mà ngành ngân hàng đã thực hiện năm qua thì hỗ trợ thông qua lãi suất là việc làm cần ghi nhận đầu tiên.

Ở thời điểm cuối năm 2007 - đầu năm 2008, khi cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến nhiều quốc gia, không loại trừ Việt Nam, thì chúng ta đã phải chuyển từ mục tiêu chống lạm phát sang ngay ngăn ngừa suy giảm kinh tế, đồng thời phải giữ ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Chính phủ đã xác định ngăn ngừa suy giảm là mục tiêu hàng đầu, sẽ phải sử dụng gói kích thích kinh tế, trong đó biện pháp hỗ trợ thông qua lãi suất là chủ đạo.

Khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 30/2008/NQ-CP thì nhiều phương án thực hiện đã được đưa ra.
Phương án đầu tiên là tập trung đầu tư vào một số công trình lớn để làm động lực kích cầu. Phương án thứ hai là chỉ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (lúc đó, có ý kiến cho rằng sẽ có 20% doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản, 60% khó hoạt động và 20% còn lại là vươn lên được).

Trong tình hình khẩn cấp ấy, tôi có đề nghị giao cho bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng bộ trưởng Bộ Tài chính và thống đốc NHNN phối hợp xử lý việc này. Bởi vì, tôi cho rằng, tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến Việt Nam rất mạnh. Trước đó, Thủ tướng có gặp riêng tôi trao đổi về kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ và đặc biệt là việc phải xử lý nhanh gói kích thích kinh tế.
Ở thời điểm đó, mọi người đều lo cho ngành Ngân hàng trước những tác động của khủng hoảng tài chính thế giới. Lo là rất đúng vì nếu không có một đề án chặt chẽ, hoặc làm quá gấp, chỉ một chút sơ hở là có thể dẫn tới nguy cơ mất an toàn cả hệ thống và con người. Điều đó rất hệ trọng.

Chúng tôi cũng đã tính đến nhiều phương án để đối chiếu  với phương án của Chính phủ. Tôi cũng muốn tính hết mọi lẽ để thấy cái nào tối ưu thì chọn. Về việc này, tôi rất khen ngợi Vụ Chính sách tiền tệ, trong 2 đêm 2 ngày đã lên được phác thảo khung về hỗ trợ lãi suất. Nói thật là chúng tôi đã trăn trở rất nhiều trước khi đưa ra trình Chính phủ  xem xét, bởi xã hội lo một thì ngành ngân hàng chúng tôi lo mười.

Sau khi được các thành viên Chính phủ thông qua, anh em trong ngành tin cậy rất cao phương án cuối cùng là hỗ trợ doanh nghiệp. Ngày 23-1-2009 (tức là 28 Tết Kỷ Sửu 2009), phương án được Thủ tướng ký duyệt.

Có một điểm cần nói thêm, là trong khi làm Thông tư (hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 30), chúng tôi có đề xuất một chính sách lúc bấy giờ là tạo điều kiện cho hộ nghèo ăn tết, khoảng 1.700 tỉ đồng. Cần phải hiểu tình hình lúc đó, khi mà gia đình nào cũng mang tâm lý rất lo lắng, cho rằng nền kinh tế mất ổn định, thì giải pháp giúp tiền cho các hộ nghèo ăn tết là nhằm ổn định tâm lý cho người dân.

Tết năm 2009, chúng tôi không có ngày nghỉ. Chúng tôi đã hoàn thành dự thảo thông tư hướng dẫn hỗ trợ lãi suất trong 2 ngày. Sau khi xong thông tư, chúng tôi bắt tay vào triển khai ngay.

Khi triển khai tôi lo lắm, vì thế giới chưa ai làm, hơn nữa lại kéo cả hệ thống ngân hàng tham gia. Và thật bất ngờ, khi tôi gặp một vài lãnh đạo ngân hàng nước ngoài, họ ủng hộ mạnh mẽ và cho rằng đây là chính sách tác động vào xã hội tốt nhất, kể cả về tâm lý lẫn về kinh tế.

Tuy nhiên, như Thủ tướng đã nói, uống thuốc thì phải đúng liều, nếu quá nhiều sẽ gây phản ứng phụ. Điều  quan trọng là khi xây dựng chính sách hỗ trợ lãi suất có tính tác động đến thị trường ngoại hối, sức ép tăng lãi suất thế nào không… Chúng tôi cũng đều phải cân nhắc, xem xét thận trọng những biến động của thị trường.

Gần đây một số ngân hàng cho rằng chính sách tiền tệ nên đi trước một bước hoặc là Thống đốc NHNN đưa ra thông điệp phải ổn định hơn?

Điều đó là chính đáng nhưng phải đặt trong một nền kinh tế ổn định. Tất cả các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cũng như lãnh đạo các nước cũng chưa thể đưa ra  được thông điệp “dài hơi”. Ngay như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) suốt cả năm qua đưa ra thông điệp đâu phải là chuẩn.

Cuối năm 2007, đầu 2008, công tác dự báo của Việt Nam chưa  ổn, nhưng sau đó, theo tôi, đã dự báo rất tốt. Điều đó thể hiện qua việc ngày 15-9-2008 xảy ra đổ vỡ một số định chế tài chính của Mỹ, thì sau đó 1 tháng chúng ta công bố thẳng thắn là kinh tế Việt Nam có “4 giảm”: xuất khẩu giảm, FDI, kiều hối và khách du lịch giảm.

Nếu các nước khác úp mở vấn đề này thì Việt Nam công  bố sớm  theo tôi là dũng cảm. Khoảng ngày 20-11-2008 ta đã có dự thảo Nghị quyết 30. Đến 10-12 thì ban hành Nghị quyết 30. Công tác dự báo tốt nên ban hành chính sách là khá chuẩn và kịp thời.

Có thể nói chính sách điều hành năm 2009 là phù hợp nhưng năm 2010 thì thế nào, Thống đốc có thể cho biết thêm về tính linh hoạt trong chính sách tiền tệ trong năm 2010?

Năm 2009, chính sách chung của thế giới là linh hoạt mở. Nhưng nhìn khía cạnh ngân hàng thì công cụ chính sách không phải muốn thay đổi là thay đổi.

Lãi suất mà NHNN đưa ra luôn linh hoạt nhưng chặt chẽ và được xem xét toàn diện. Theo tôi, lãi suất ở Việt Nam thời gian qua cơ bản là đúng vì nó còn chịu sức ép của hỗ trợ lãi suất, đồng thời giá vàng cũng tác động đến chính sách tiền tệ. Ta giữ nguyên lãi suất cơ bản 7%/năm trong 11 tháng, đến tháng 12-2009 mới nâng lên 8%/năm. Nếu nâng lãi suất cơ bản trước 1, 2 tháng thì sẽ có lợi cho hệ thống ngân hàng, huy động vốn được nhiều hơn nhưng lại ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô khác. Vì thế, chúng ta phải nhìn toàn cục, nhìn khía cạnh lợi ích này mà không nhìn lợi ích kia thì sẽ không ổn.

Về chính sách tỷ giá, nhiều lần tôi nói đây là một bài toán khó. Thực ra, chúng ta đang điều hành theo nguyên tắc linh hoạt, theo thị trường có sự quản lý của nhà nước, có kiểm soát. Nguyên tắc này không thay đổi. Các nước có hai chính sách tỷ giá một cách rõ rệt. Một là cố định, hai là thả nổi. Còn ta thì có quản lý theo cung-cầu.

Khi quyết định điều chỉnh tỷ giá, có người cũng nói với tôi là nên điều chỉnh sớm 1 tháng, nhưng bài toán này cần phải xem một cách toàn diện đến nợ quốc gia, nợ doanh nghiệp, lạm phát nên điều chỉnh phải có tính toán.

Mỗi lần điều chỉnh chính sách thật sự là khó khăn cho ngành Ngân hàng và cả khó khăn cho Chính phủ. Do đó khi điều chỉnh chính sách gì cũng phải chặt chẽ, tính đến các lợi ích. Trong giai đoạn càng khó khăn, càng phải thận trọng hơn, vì nếu để "trật khớp" sẽ làm xã hội đảo lộn.

Về thị trường ngoại hối, theo đề án cũ, nếu giải quyết bài toán thị trường ngoại hối thì tốt nhất là cơ cấu hợp lý nền kinh tế (để tránh không thâm hụt cán cân thương mại). Tuy nhiên, nhìn chung thì tiềm lực của Việt Nam tương đối sáng sủa. Ví dụ năm 2010, xi măng dư thừa có thể xuất khẩu, phân bón đủ nên không nhập khẩu… hay như Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động tốt thì việc xuất ngoại tệ (để nhập khẩu dầu) sẽ thấp. Vì thế năm nay cần tiếp tục kêu gọi “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” , điều này sẽ hạn chế được nhập siêu rất lớn.

Hiện nay có tình trạng, ngân hàng duy trì 2 tỷ giá, 2 lãi suất, theo Thống đốc, vấn đề này xử lý như thế nào?

Lãi suất phải đặt trong quan hệ với thị trường. Thông thường, một ngân hàng phân ra 5, 6 nhóm khách hàng. Nếu doanh nghiệp làm ăn tốt, tài sản tốt, hợp đồng không có vấn đề, có tín nhiệm thì bao giờ cũng được vay nhiều hơn, dễ hơn. Còn nếu doanh nghiệp chỉ mới làm ăn, quy mô nhỏ, hợp đồng ít, chưa có sự tín nhiệm thì được vay ít với lãi suất cao hơn. Vì thế sẽ có loại cho vay lãi suất 8%, có loại 10%-12%...

Trong thị trường, ngân hàng lớn bao giờ cũng cho vay lãi suất thấp vì vốn dài hạn lớn. Ngân hàng nhỏ thì "bươn chải" cho vay xa, món nhỏ, chi phí (do đi lại) cao thì ắt phải cho vay lãi suất cao. Còn nếu nói các ngân hàng nhà nước, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh “hai giá” là không có.

Đây cũng là thử thách đối với Thống đốc khi quản lý một hệ thống ngân hàng không đồng đều. Một ngân hàng có tài sản 400.000 tỉ đồng với một ngân hàng có tài sản 2.000 tỉ đồng hoạt động trong một khung quản lý như nhau không phải đơn giản. Phải là người trong cuộc mới thấy sự cố gắng của chúng tôi trong thời gian qua.

Chúng ta đã “vượt bão” năm 2009, nhưng nhiệm vụ trong năm 2010 được dự báo là rất nặng nề. Thống đốc đặt ra những mục tiêu cụ thể nào cho ngành ngân hàng trong năm nay?

Mục tiêu là góp phần tăng trưởng kinh tế 6,5%, kiểm soát lạm phát dưới 7%. Cụ thể đối với ngành là tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán khoảng 28%, tăng trưởng tín dụng khoảng 25%. Khi cung tiền ra phải thận trọng cân nhắc cả tác dụng phụ và tác dụng chính, là kích thích tăng trưởng hay lạm phát?

Thưa Thống đốc, năm 2010 ông có dự định gì cho nhiệm vụ của mình?

Tôi muốn hoàn thiện thể chế, khung pháp lý. Năm 2010, Thủ tướng đã giao ngành ngân hàng 5 nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ rất quan trọng là phải tạo một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh bằng cách ban hành luật và các thể chế. Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng nhắc là cần nâng cao vai trò ngân hàng trung ương, việc quản lý của NHNN đối với toàn hệ thống ngân hàng phải chuẩn xác. Trong dài hạn phải hoàn thiện cải cách hành chính và công tác truyền thông để ngành ngân hàng luôn công khai, minh bạch, rõ ràng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

Còn trong ngành ngân hàng có 2 nhiệm vụ riêng là làm công tác truyền thông cho tốt và công tác dự báo. Hiện nay, NHNN cho phép 5 vụ chức năng mua thông tin từ ngân hàng các nước để giúp cho công tác dự báo. Qua đó, Thống đốc phải nghiên cứu, lựa chọn để phục vụ điều hành.

( Tinkinhte.com tổng hợp )

Bài thuộc chuyên đề: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam ?

  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Phục hồi kinh tế vĩ mô: 5 “vùng trũng” cần khắc phục
  • Giám sát, đánh giá đầu tư: Nhiều nơi vẫn làm cho có
  • Sự kiện - Phân tích: Bốn trọng tâm của Tuyên bố Hua Hin
  • Ứng phó nguy cơ thiếu hụt gần 1 tỷ kWh điện năm 2010
  • Cần hình thành một hệ thống quốc gia về đổi mới
  • Việt Nam có lợi thế lớn trong phát triển kinh tế
  • Để vốn ODA trở thành một nguồn lực cho kinh tế tư nhân
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi