Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Lại bàn về gói kích cầu : Vai trò chủ đạo của Ngân hàng Nhà Nước

Đến khi gói hỗ trợ kết thúc, liệu DN có thích nghi được với mức lãi suất vay lên đến 2 con số ?
Đến khi gói hỗ trợ kết thúc, liệu DN có thích nghi được với mức lãi suất vay lên đến 2 con số ?

Mục đích chính của gói kích cầu là kích thích sức sản xuất - tiêu dùng. Tiêu dùng đã tăng. Đây chính là vấn đề liên quan đến thực lực nền kinh tế cũng như tính bền vững của tăng trưởng.

Theo báo cáo của Chính phủ, tốc độ tăng trưởng thương mại (bán lẻ hàng hóa và dịch vụ) trong 9 tháng đầu năm tăng 18,6%. Trong khi đó, giá trị sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chỉ lần lượt tăng 2,6% và 6,5%. Như vậy, sản xuất trong nước có thực sự được lợi hay không ? Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê cho thấy GDP của VN tăng dần đều, tính chung 3 quý đạt 4,6%. Việc các chỉ số kinh tế trong nước tiếp tục tăng trưởng khá trong bối cảnh thị trường quốc tế khó khăn chủ yếu do tác động của gói kích cầu của Chính phủ. Việc hỗ trợ lãi suất 4% cũng như chính sách giảm, giãn thuế đối với DN ít nhiều đã có tác dụng kích thích nhu cầu tiêu dùng nội địa. GDP tăng chủ yếu do lực kéo này.

Suy ngẫm các con số

Hãy nhìn vào các sản phẩm được coi là quan trọng và có mức tăng cao lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Điều hòa nhiệt độ tăng 48,2%, tủ lạnh tủ đá tăng 30,9%... Ngoài yếu tố mùa vụ (mùa hè), cần đặt câu hỏi giá trị sản xuất trong nước chiếm bao nhiêu phần trăm trong thành phẩm trong khi phần lớn nguyên liệu, thiết bị đều được nhập khẩu ? Khai thác dầu thô tăng 17,6% hầu như không liên quan đến việc có kích cầu hay không, còn thép tròn tăng 18,8%, xi măng tăng 18,3% là do hưởng lợi trực tiếp từ ngành xây dựng, vốn tăng trưởng mạnh do vốn kích cầu.

Điều cần làm là thực hiện một chính sách tiền tệ ổn định, bền vững, nơi mà DN được vay vốn với lãi suất an toàn cho DN, không gây ra lạm phát.

Những tín hiệu tích cực đã xuất hiện ở lĩnh vực xây dựng, với tốc độ tăng trưởng 9,7% và là lực đẩy quan trọng đối với công nghiệp nói chung. Tuy nhiên, thay vì đầu tư vào nhà ở giá thành từ 9 đến 10 triệu đồng mỗi m2, sản phẩm từ các dự án nhận được ưu đãi từ vốn kích cầu hiện nay lại có giá thành hàng chục triệu đồng một mét. Các công trình này là thương phẩm chứ chưa phục vụ nhiều cho nhu cầu thực của xã hội. Điều này tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.

Về đà tăng trưởng của thị trường chứng khoán VN trong 9 tháng qua, ai cũng nhận thấy là thị trường đang đi lên. Khối lượng giao dịch tăng đều chứng tỏ một lượng tiền lớn đã được đổ vào. Nhưng tiền đó ở đâu ? Không phải nhà đầu tư nước ngoài vì họ vẫn đang bán ròng. Không phải nhà đầu tư cá nhân vì không đủ tiềm lực. Tôi cũng chưa thấy quỹ tài chính nào trong nước đủ lớn để liên tục rót vốn như vậy. Theo tôi, rất có thể một lượng vốn kích cầu đã được DN tuồn vào chứng khoán, vào đầu tư tài chính. Như vậy sẽ rất nguy hiểm khi nhiều DN cũng đến hạn trả nợ ngân hàng. Chuyện bán tháo rất có thể sẽ xảy ra.

Giải pháp hợp lý

Về khả năng về một gói kích cầu thứ 2 đang được Chính phủ cân nhắc, nếu gói kích cầu thứ hai vẫn là việc Nhà nước đứng ra tiếp tục bù lãi suất cho DN, ở mức 4% hoặc ít hơn, tôi nghĩ đây là điều không nên bởi bản thân gói thứ nhất đã ẩn chứa nhiều bất cập trong phương thức thực hiện và quản lý vốn. Tiếp tục dùng ngân sách để trả tiền lãi suất cho DN là không phù hợp và phần nào phản ánh tư duy bao cấp. Nghĩa vụ của DN là phải nộp thuế cho Nhà nước chứ không thể mãi tiếp tục "vai trò ngược" như hiện nay. Hơn nữa kích cầu cũng giống việc "mồi nước" cho máy bơm hoạt động. Không thể cứ "mở nước đổ vào máy bơm" hết năm này qua năm khác.

Điều đáng nói ở đây là làm gì để giúp DN không bị phá sản, không phải chịu cú sốc về lãi suất. Nhưng đó không phải việc của gói kích cầu, của ngân sách, mà là của chính sách tiền tệ. Tư duy làm thế nào để DN có thể vay ở lãi suất phù hợp nhất, giả định là 6,5%, không chỉ có ở VN nhưng cách làm của thế giới khác chúng ta. Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương đã cấp vốn cho các ngân hàng thương mại với lãi suất rất thấp. Ở Nhật là 0,10%, Mỹ là 0,25% hay EU là 1%... Như vậy, ngân hàng thương mại có thể cho DN vay với lãi suất thấp.

Nếu ngân hàng trung ương không hoàn thành tốt nhiệm vụ cấp vốn cho ngân hàng thương mại, các ngân hàng này sẽ phải huy động vốn từ trong dân với lãi suất cao, hiện có nơi đã lên tới hơn 9%. Đương nhiên, khi các DN vay lại nguồn vốn này từ ngân hàng, lãi suất sẽ bị cộng thêm vài phần trăm. Đến ngày gói hỗ trợ lãi suất kết thúc, đang làm việc với mức lãi 6,5%, liệu có DN nào thích nghi nổi với con số 12, 13% ?

Vai trò của ngân hàng trung ương là điều tiết lưu lượng tiền tệ trong nền kinh tế nên cấp phương tiện tín dụng với bất kỳ lãi suất nào để ngân hàng thương mại cho DN vay là điều hoàn toàn có thể thực hiện được. NHNN cũng có quyền phát hành tiền tệ và không phải đi huy động vốn hay trả lãi suất như NHTM, có thể đưa vào nền kinh tế lượng tiền như thế nào miễn sao không gây lạm phát.

Vậy giải pháp nào được coi là hợp lý trong hoàn cảnh kinh tế VN hiện nay ? Điều quan trọng nhất là chính sách tiền tệ. Chúng ta đang nói chuyện tiền tệ, chuyện lãi suất, chuyện chi phí đầu vào của DN qua lãi suất. Điều cần làm là thực hiện một chính sách tiền tệ ổn định, bền vững, nơi mà DN được vay vốn với lãi suất an toàn cho DN, không gây ra lạm phát. NHNN nên theo dõi lưu lượng tiền tệ hàng ngày trong nền kinh tế để biết đâu là lượng tiền vừa đủ cần cung ứng cho DN: Không nhiều quá để DN đầu tư không đúng mục đích hay gây áp lực lạm phát. Không ít quá để khiến nền kinh tế phải "khát nước", để gây ra vấn đề thiểu phát.

Tóm lại, các nhà quản lý nên nghiên cứu một chính sách tiền tệ phù hợp để nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững trong đó  NHNN giữ vai trò chủ đạo.

(Theo Bùi Kiến Thành - Chuyên gia kinh tế cao cấp // Diễn đàn doanh nghiệp)

  • Năm 2010: Tập trung phục hồi kinh tế
  • Cơ cấu kinh tế vùng: Từ chuyện một con đường
  • Tiếp tục thực hiện gói kích cầu thứ 2 : Nhưng có trọng tâm, trọng điểm
  • Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong: Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam
  • Có nên tung gói kích cầu thứ hai vào lúc này?
  • Xăng dầu nặng gánh
  • Giám sát tập đoàn: Sáu hạn chế về cơ chế, chính sách quản lý vốn
  • Nhận diện để phát huy hiệu quả sản xuất
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi