Công ty CP giày Bình Định bảo đảm việc làm cho 1.300 lao động với mức thu nhập bình quân 1,8 triệu đồng/người/tháng.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã và đang ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực của kinh tế thế giới. Các nền kinh tế phát triển và đang phát triển đang nỗ lực áp dụng nhiều biện pháp nhằm hạn chế các tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng.
Tuy nhiên, có thể nói, thời điểm này Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn, nếu không tận dụng cơ hội này để tái cơ cấu, khắc phục những yếu kém nội tại của nền kinh tế thì Việt Nam rất khó có thể phát triển nhanh và bền vững trong tương lai.
Nâng cao hiệu quả đầu tư
Trong năm 2009, kích cầu đầu tư, đặc biệt xây dựng cơ bản (XDCB) là một nội dung quan trọng để ngăn chặn suy giảm kinh tế. Vì vậy, Chính phủ đã tập trung nguồn vốn cho kích cầu đầu tư nói chung và cho XDCB nói riêng rất lớn và được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Theo Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội, nếu tính cả 17.000 tỷ đồng bảo lãnh vốn vay, tổng gói kích cầu lên đến 160.000 tỷ đồng. So với các nước trên thế giới, quy mô gói kích cầu hiện nay không lớn nếu xét tới giá trị tuyệt đối, song là vấn đề đáng quan tâm khi nó chiếm tới gần 10% GDP.
Ðiểm đáng lưu ý ở đây là nguồn vốn đầu tư XDCB được huy động từ trái phiếu Chính phủ (TPCP) chiếm con số không nhỏ trong tỷ trọng vốn đầu tư. Ðây là nguồn vốn vay phải trả lãi được huy động trong dân cư và chủ yếu từ khu vực ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng... Năm 2009, Quốc hội đã phê chuẩn cho phép phát hành 36 nghìn tỷ đồng vốn TPCP, cộng với 7.733 tỷ đồng từ năm 2008 chưa sử dụng hết chuyển sang. Mới đây, Chính phủ đã quyết định bổ sung thêm 20 nghìn tỷ đồng TPCP, nâng tổng vốn đầu tư XDCB lên 64 nghìn tỷ đồng. Ðây là nguồn vốn rất lớn, có thể bảo đảm được mục tiêu kích cầu đầu tư năm 2009. Song, để phát huy tối đa hiệu quả tích cực của nguồn vốn TPCP, cần nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn, rào cản trong quá trình giải ngân nguồn vốn TPCP những năm qua.
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu do cơ chế, thì nguyên nhân chính khiến tốc độ giải ngân các dự án chậm là nằm ở "nút thắt" giải phóng mặt bằng và các thủ tục xây dựng công trình. Mặc dù từ đầu năm 2008, cơ chế mới (giao phần giải phóng mặt bằng cho địa phương, tăng tính chủ động cho nhà đầu tư) đã được áp dụng nhưng tiến độ giải phóng mặt bằng ở các địa phương, các công trình vẫn diễn ra khá chậm (chẳng hạn tuyến đường vành đai 3 Hà Nội, quốc lộ 6,...), tốc độ giải ngân nguồn vốn này trong thời gian qua quá chậm chạp. Theo Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư XDCB, thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước thực hiện (so với kế hoạch 2009) mới đạt 25,5%.
Do đó, để khắc phục những hạn chế, trong năm 2009 cần tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo đối với lĩnh vực đầu tư XDCB,n Nhất là trong bối cảnh cả nước đang thực hiện các giải pháp kích cầu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Việc kiểm tra, đôn đốc, giải ngân tốt là nhiệm vụ quan trọng góp phần tăng hiệu quả của đầu tư. Ngoài ra, cần ưu tiên đầu tư giải ngân cho các dự án, công trình có tính chất cấp bách, quan trọng, có khả năng kích thích phát triển kinh tế của vùng, miền, những dự án mang lại nguồn thu ngân sách lớn, tạo việc làm cho người lao động. Chính phủ cần tăng hỗ trợ trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, điều chuyển vốn giữa các bộ, ngành, địa phương khi không có khả năng triển khai, giãn và dừng các dự án kém hiệu quả. Ðẩy mạnh giải ngân vốn XDCB, đặc biệt là vốn năm 2009, đồng thời xem xét ngay các điều kiện để ứng vốn năm 2010. Khi mà nguồn vốn đầu tư của Nhà nước có hạn thì việc xác định đầu tư đúng, có trọng điểm, không dàn trải sẽ đem lại hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp.
Ðào tạo, sắp xếp lại và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố có tính chất quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng sâu rộng. Nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao sẽ tạo tiền đề cho một quốc gia phát triển và ngược lại, nguồn nhân lực chất lượng quá thấp sẽ kìm hãm khả năng phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại: tỷ lệ lao động có kỹ năng thấp; mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ; lao động chất xám yếu và thiếu; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động kém... Ðặc biệt, trong bối cảnh nước ta phải chịu những tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, những yếu kém trong vấn đề nguồn nhân lực càng được bộc lộ rõ hơn, mà hệ quả rõ nét nhất là số lao động mất việc ngày càng tăng lên.
Chính phủ cần có những quyết sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: đào tạo lại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đào tạo theo hướng gắn liền với nhu cầu của thị trường lao động... Thực tế Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm vào việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gần đây nhất là những chủ trương, chính sách, các đề án nằm trong gói kích cầu. Song, nếu không tận dụng tốt cơ hội hiện nay, hoặc không có được quy hoạch (cả tổng thể và chi tiết) có chất lượng tốt nhằm nâng cao chất lượng lao động, chúng ta sẽ sa vào tình trạng dàn trải và lãng phí nguồn lực, có thể dẫn tới tụt hậu xa hơn so với các quốc gia khác.
Một vấn đề khác là việc tái cơ cấu, sử dụng nguồn nhân lực tại các cơ quan nhà nước ở cả trung ương và địa phương. Hiện nay, chất lượng và khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của hệ thống cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước của Việt Nam còn nhiều bất cập, nhất là trong giai đoạn toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, đối với bộ phận nhân lực quản lý, hạn chế chủ yếu là các kỹ năng cần thiết, như kỹ năng ra quyết định, kỹ năng phân công công việc, kỹ năng giao tiếp và ngoại ngữ... Hiện tượng "chảy máu chất xám" trong những năm gần đây cho thấy việc chọn lọc, loại bỏ những đối tượng kém năng lực, có chế độ đãi ngộ và giữ chân người tài làm việc cho khu vực nhà nước càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Yêu cầu cấp bách về môi trường
Cũng như một số nước đang phát triển khác, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam là điều khó tránh khỏi và đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển nông thôn, xây dựng hạ tầng, cùng với tăng dân số đang gây áp lực lên môi trường. Tài nguyên thiên nhiên, nhất là rừng, đất, nước mặt và nước ngầm, các hệ sinh thái tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị suy thoái nặng. Các loài động vật, thực vật hoang dã, các nguồn gen quý và đa dạng sinh học nói chung đang có nguy cơ bị giảm sút nhanh chóng. Ô nhiễm nguồn nước ở nước ta đang ngày càng nghiêm trọng và diễn ra với tốc độ tăng nhanh, đặc biệt mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung đã lên đến mức báo động.
Theo tính toán, ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nếu không có giải pháp bảo vệ môi trường thích hợp, thì cứ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng gấp hai lần là mức độ ô nhiễm môi trường sẽ tăng từ ba đến bốn lần. Như vậy, ô nhiễm môi trường là một thách thức lớn đối với quá trình phát triển của Việt Nam, và là một cái giá phải trả của quá trình CNH, HÐH. Cái giá này đặc biệt đắt nếu trong quá trình phát triển chúng ta bỏ qua hoặc không chú ý đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường. Nếu không có hệ sinh thái hỗ trợ, ngay cả các nước giàu cũng gặp khó khăn và chi phí cho môi trường có thể tiêu tán hết thành quả của tăng trưởng.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Việt Nam có dân số đứng thứ 13 trên thế giới và dân số trẻ chiếm tỷ trọng lớn nên thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghệ cao (CNC) khá đa dạng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành CNC, từng bước sản xuất và tiến tới xuất khẩu đại trà các sản phẩm CNC. Thế nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu sản phẩm CNC.
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn và thách thức. Sự suy thoái ngày càng sâu của kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực đến thị trường hàng hóa xuất khẩu, thị trường vốn và hoạt động du lịch của nước ta. Ở trong nước, lạm phát cao cùng với suy giảm sản xuất công nghiệp và xây dựng cuối năm 2008 kéo dài sang những tháng đầu năm 2009 đã làm trầm trọng thêm những khó khăn, yếu kém vốn có của nền kinh tế.
Năm 2008 và quý I-2009, khủng hoảng tài chính, rộng hơn là khủng hoảng kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Các nước có nền kinh tế phát triển đã đưa ra gói trợ giúp lớn như, Mỹ chi 1.800 tỷ USD (tháng 4-2009), Nhật Bản chi gần 400 tỷ USD (tháng 4-2009), Pháp chi 40 tỷ ơ-rô (tháng 12-2008), Ðức 67 tỷ USD (tháng 1-2009) và Trung Quốc chi 580 tỷ USD (tháng 12-2008) (nguồn: IMF).
Tại nhiều quốc gia, giá các mặt hàng cơ bản tiếp tục gia tăng trong khi sức mua của người dân lại giảm. Tình trạng khan hiếm đất canh tác buộc một số chính phủ phải đi thuê hoặc mua ở nước ngoài để đảm bảo an ninh lương thực cho chính mình.
Có nghịch lý , sản xuất nông nghiệp VN ngày càng đạt kết quả tốt. Nhưng là tốt trong thực tế ngày càng... bấp bênh. Bất kỳ tác động nào, từ thời tiết, phân bón, giống, thị trường... cũng có thể làm hỏng nỗ lực của nông dân, của Nhà nước và giới DN. Nông nghiệp đang vừa là nguồn sống, vừa là tương lai, và vừa là nỗi... sợ của các thành phần tham gia trong đó.
Năm 1997 Việt Nam đã tăng trưởng trên 8,15%, nhưng đến 1998 tốc độ này đã bắt đầu xuống dốc, đến năm 1999 thì chỉ còn 4,8%. Kinh tế trì trệ nhiều năm sau đó, cho đến 2005 mới ngoi lên được 8,4%, tương đương mức tăng trưởng của năm 1997 bắt đầu khủng hoảng.Việt Nam đã không lưu lại bất kỳ bài học nào từ cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997, trong khi xuất hiện ngày càng nhiều quan ngại về thời gian và cách thức để ra khỏi khủng hoảng hiện tại mà mức độ của nó trầm trọng hơn nhiều.
Tại cuộc họp giao ban trực tuyến ngày 4.6 tại bộ NN&PTNT về điều hành xuất khẩu gạo, báo cáo của ông Trương Thanh Phong, chủ tịch hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) chỉ cho thấy một bức tranh màu hồng. Còn trái lại, đại diện cho các tỉnh Kiên Giang, Bến Tre, Cần Thơ… lại tỏ ra lo lắng thực sự khi giá lúa, gạo đã chững lại và giảm xuống còn việc thu mua và xuất khẩu gạo vào thời điểm này lại trở lên khó khăn.
Năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Do vậy, các chuyên gia dự báo, những năm tới nhu cầu đất phi nông nghiệp tiếp tục tăng, diện tích đất trồng lúa bị chuyển đổi mục đích sử dụng sẽ rất lớn nếu không được bảo vệ. Các nhà khoa học cho rằng, phải kiểm soát chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa để vừa giữ vững an ninh lương thực (ANLT), vừa đảm bảo mục tiêu CNH, HĐH đất nước; đồng thời, có “bảo hiểm nông nghiệp” cho người trồng lúa để họ an tâm đầu ra và gắn kết “4 nhà”.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.