Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh. (Ảnh: Nhan Sáng/TTXVN)
Khoảng 2/3 dự án, công trình đã được phê duyệt đầu tư sẽ không được bố trí vốn Nhà nước sau khi Chỉ thị 1792 ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ “về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách và vốn trái phiếu Chính phủ” có hiệu lực.
Bên lề Hội nghị hướng dẫn triển khai Chỉ thị này ngày 15/11, phóng viên đã phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh về tác động của cú hích này với tái cơ cấu đầu tư công cũng như các giải pháp trong thời gian tới.
-Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng đã nói việc triển khai Chỉ thị 1792 này chắc chắn sẽ không tránh khỏi tạo ra cú sốc với các địa phương, nhất là các địa phương khó khăn, địa phương miền núi . Xin Bộ trưởng nói rõ hơn về tác động này cũng như hướng giải quyết?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Để hoàn thành số dự án đang thi công dở dang mà Quốc hội đã thông qua ở Nghị quyết 881 và Quyết định 184 của Thủ tướng Chính phủ cho giai đoạn 2011-2015 đã cần trên 500.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, Nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 2 này chỉ cho phép bố trí không quá 225.000 tỷ, tương đương với đáp ứng được 36% nhu cầu của các công trình dở dang. Như vậy, sẽ có 2/3 khối lượng dự án, công trình sẽ không có vốn bố trí.
Trong khi đó, đây là các dự án đường giao thông, thủy lợi, bệnh viện, trường học. Do vậy, các bức xúc nảy sinh từ việc không có vốn và phải chuyển đổi hình thức đầu tư là việc khó tránh khỏi. Đây là việc cực chẳng đã nhưng đã đến lúc chúng ta không thể không làm bởi siết chặt việc bố trí vốn đầu tư là để dồn lực hoàn thành dứt điểm một số công trình nhằm phát huy hiệu quả.
Sau cú chuyển đổi mạnh mẽ này, bên cạnh mặt được là hiệu quả đầu tư mang lại, tác động bất lợi không mong muốn đi kèm là sự bức xúc và lãng phí nhất định. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết giải quyết tốt theo hai hướng: Dùng cả vốn Nhà nước để hỗ trợ việc chuyển đổi các công trình sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và dùng cơ chế mở ra đối với các công trình để doanh nghiệp có thể tham gia vào đầu tư, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành thì cơ bản sẽ không tạo ra lãng phí, bức xúc mà còn tạo ra tiền lệ để huy động các doanh nghiệp.
Hơn thế, Chỉ thị 1792 là tín hiệu tốt cho thấy Chính phủ đã sẵn sàng mở ra một kênh đầu tư mới cho các nhà đầu tư trong nước, quốc tế có thể tham gia vào một số dự án mà trước đây chỉ có Nhà nước đầu tư.
Vì vậy, với các dự án chuyển đổi được sang hình thức đầu tư khác như BT, BOT, PPP hoặc bán khoán cho thuê thì sẽ hiệu quả. Tuy nhiên, việc kêu gọi đầu tư theo hình thức này sẽ chỉ áp dụng được với các công trình có mức độ hoàn vốn cao; diễn ra ở địa bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố lớn khác.
Với các dự án ở các tỉnh miền núi biên giới buộc phải chuyển hình thức đầu tư, Nhà nước sẽ quan tâm hỗ trợ nhiều hơn thông qua điều chỉnh hỗ trợ vốn đầu tư cao hơn các tỉnh khác. Còn lại, nếu các địa phương này vẫn tiếp tục bố trí vốn đầu tư dàn trải thì sẽ phải tự giải quyết.
- Một trong những hình thức đầu tư là đối tác công tư (PPP) đang được coi như “cứu cánh” cho các dự án không bố trí được vốn từ ngân sách và vốn trái phiếu nhưng lại khó triển khai do chưa có các quy định cụ thể phân chia lợi ích cũng như rủi ro giữa Nhà nước và nhà đầu tư? Vậy Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ kiến nghị gì với Chính phủ để tháo “thút thắt” này?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 71 quy định về hình thức đầu tư PPP và đã có hướng dẫn rõ ràng; trong đó tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước không quá 30%, còn lại các doanh nghiệp tự lo. Tuy nhiên, việc triển khai trong thực tế còn nhiều vướng mắc nên trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ xem xét đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung quyết định 71, làm sao cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam hơn để doanh nghiệp có thể tham gia vào và thu hồi vốn nhanh hơn.
Thứ hai, Bộ cũng sẽ rà soát lại những quy định về PPP, BOT, BT làm sao cho thiết thực. Đặc biệt, trong lúc chuyển đổi hình thức đầu tư như hiện nay, chúng ta đặc biệt cần mở cơ chế thoáng hơn, có thể Nhà nước thậm chí phải chấp nhận một phần hỗ trợ cho doanh nghiệp để doanh nghiệp bỏ tiền vào dự án và thu được hiệu quả và minh bạch. Đây là điểm cốt yếu.
- Chỉ thị 1792 lần đầu tiên đưa ra cơ chế quy trách nhiệm cá nhân trong việc phê duyệt dự án, thẩm định dự án cũng như bố trí vốn cho dự án? Vậy quy định này liệu có khả thi khi chúng ta vốn đã quen với cơ chế chịu trách nhiệm tập thể?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Chỉ thị đã nói rõ, cá nhân nào có quyền ký phê duyệt dự án đầu tư mà không xác định rõ được nguồn vốn, để dự án triển khai kéo dài gây lãng phí thì cá nhân đó sẽ phải chịu trách nhiệm về cả hành chính và kinh tế.
Cụ thể, việc bố trí vốn cho các dự án mới năm 2012 phải đảm bảo tổng số vốn bố trí cho từng dự án (gồm vốn ngân sách trung ương, vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác) tối thiểu bằng 15% đối với dự án nhóm A; 20% đối với dự án nhóm B; 35% với dự án nhóm C so với tổng vốn đầu tư được phê duyệt; trong đó, dự án nhóm B phải hoàn thành trong 5 năm và dự án nhóm C phải hoàn thành trong 3 năm. Tôi tin rằng, với chế tài rõ ràng kiên quyết như vậy, chắc chắn trong thời gian tới các vi phạm sẽ phải được xử lý.
Còn với các dự án đã được phê duyệt và hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí nhưng vẫn bị chậm tiến độ sẽ được xem xét làm rõ nguyên nhân. Theo đó, nếu nguyên nhân là do bố trí vốn thì trách nhiệm thuộc 2 phía.
Nếu thuộc phần vốn do Trung ương cấp thì Trung ương chịu trách nhiệm; nếu thuộc phần ngân sách địa phương cam kết bố trí thì địa phương phải chịu trách nhiệm. Còn với nguyên nhân chậm tiến độ không do bố trí vốn mà do việc chọn nhà thầu không đủ năng lực thì cá nhân chọn nhà thầu sẽ bị xử lý. Xử lý hành chính đối với cá nhân sẽ là khiển trách, cảnh cáo, nhắc nhở tùy theo mức độ. Về kinh tế, có thể bị thu hồi vốn lại cho Trung ương và điều này đã được Chính phủ làm rồi.
- Điểm mới trong Chỉ thị 1792 là quy định việc lập kế hoạch đầu tư sẽ là lập kế hoạch trung hạn 5 năm có phân khai ra kế hoạch từng năm so với việc lập kế hoạch thụ động từng năm trước đây. Vậy Bộ trưởng đánh giá như thế nào về sự đổi mới này?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Sự đổi mới trong việc lập kế hoạch sẽ loại bỏ cơ chế xin cho bởi vì Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thông báo về kế hoạch cụ thể bố trí tổng vốn đầu tư cho cả giai đoạn 3-5 năm tới; trong đó có kế hoạch vốn cho từng năm. Trên cơ sở của việc bố trí vốn cụ thể như vậy, các bộ và địa phương sẽ tự quyết định bố trí sử dụng vốn cho phù hợp, hiệu quả. Tuy nhiên, việc bố trí này sẽ phải có sự kiểm soát từ trung ương để không quay trở lại tình trạng đầu tư phân tán.
Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính được Chính phủ giao “gác cổng” vấn đề này. Hai bộ sẽ rà soát trước khi các địa phương phê duyệt dự án đầu tư. Chỉ thị 1792 quy định có thẩm định dự án nhưng chỉ thẩm định các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho địa phương, còn phần cân đối tỏng ngân sách địa phương thì không thẩm định.
Như vậy, phần thẩm định rất ít và các bộ, ngành cũng không phải thẩm định mà chỉ sau khi Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh ký phần trong cân đối trong ngân sách địa phương và Bộ trưởng ký các phần vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp cho bộ sẽ phải gửi lên cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để hai bộ phối hợp xem xét các quyết định ấy có đúng với các tiêu chí quy định trong Chỉ thị 1792 của Thủ tướng.
Nếu đúng thì triển khai, còn không đúng thì hai bộ sẽ có khuyến cáo cụ thể để các địa phương, các bộ xem xét điều chỉnh lại quyết định đầu tư nhằm đảm bảo nguyên tắc: vốn bố trí tập trung và theo đúng quy định nhóm B không quá 5 năm, nhóm C không quá 3 năm; sử dụng nguồn vốn đúng mục đích. Nếu sau khi có khuyến cáo rồi mà các địa phương, bộ vẫn tiếp tục triển khai thì Chính phủ sẽ xử lý.
- Bộ trưởng kỳ vọng như thế nào vào từ Chỉ thị 1792 này?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Theo tôi, Chỉ thị 1792 chắc chắn sẽ tạo ra một sự bố trí vốn tập trung hơn so với trước đây, sẽ tạo ra một cú hích, là điểm khởi đầu cho tái cơ cấu đầu tư công. Chỉ thị cũng thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ để khắc phục “bệnh” bố trí vốn dàn trải, kém hiệu quả trước đây. Điều này không có gì phải nghi ngờ. Điều cần nghi ngờ là Chỉ thị có được thực hiện nghiêm túc hay không? Bản thân tôi luôn tin tưởng Chỉ thị sẽ phải được thực hiện nghiêm túc vì đã đến lúc chúng ta không thể không nghiêm túc được.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Thay đổi giờ làm để giảm bớt ùn tắc giao thông là giải pháp được Bộ Giao thông Vận tải và UBND thành phố Hà Nội tính toán và đưa ra. Giải pháp này đang thu hút sự quan tâm và có nhiều ý kiến từ dư luận.
Là Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Bình Dương, Phó chủ tịch Quỹ Hỗ trợ phòng tránh thiên tai miền Trung, khi tham gia Quốc hội, doanh nhân Phan Văn Quý còn là Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, nên ông cũng khá bận rộn.
Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu luôn có vai trò quan trọng cũng như tác động lớn tới đời sống xã hội. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật định danh hàng hóa, dịch vụ này.
Sau nhiều năm đứng thứ nhì (sau Thái Lan) về xuất khẩu gạo, VN có thể sẽ vươn lên vị trí đứng đầu, nhất là trong hoàn cảnh Thái Lan đang bị ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Tuy nhiên, “nguồn lợi do XK gạo VN mang lại còn thấp, chưa tương xứng giá trị” - ông Nguyễn Thế Dũng - Cán bộ cao cấp Chương trình Phát triển Nông thôn của Ngân hàng Thế giới (WB) nhấn mạnh.
Việc tái cấu trúc DNNN đã được thực hiện từ hàng chục năm nay. Tuy nhiên, tiến trình tái cấu trúc vẫn rất chậm, thậm chí nhiều nơi còn tỏ ra lúng túng.
“Tôi chỉ có thể nói đây là một giải pháp đang phải tiếp tục cân nhắc” Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nói về đề xuất điều chỉnh giờ làm của Trung ương là 9 giờ và Hà Hội là 8 giờ 30 của Bộ Giao thông Vận tải.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.