Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Việt Nam có thể kiềm chế lạm phát dưới 10%?

Lạm phát tăng cao trong 3 tháng đầu năm 2011 chủ yếu là do nguyên nhân nội tại của nền kinh tế - đó là nhận xét của PGS - TS Trần Hoàng Ngân - thành viên HĐ Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế TPHCM.

Theo ông Ngân, Chính phủ cần tăng thêm liều lượng cho một số giải pháp “điều trị” căn bệnh lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Thưa PGS - TS, lạm phát tăng rất cao trong 3 tháng đầu năm và còn đe doạ sẽ tiếp tục tăng cao trong những tháng tới, nguyên nhân chính vì đâu? Hai đợt tăng giá xăng dầu liên tục có phải là nguyên nhân chính tác động đến trượt giá?

- Nhiều nước trong khu vực hội nhập với thế giới sâu hơn VN và cũng chịu những tác động của thị trường thế giới như giá xăng dầu tăng, nhưng họ không bị lạm phát cao như VN. Chẳng hạn lạm phát năm của Thái Lan tính đến cuối tháng 3.2011 là 2,9%, Indonesia 6,8%, Singapore 5%, Malaysia 2,9%...

Trong khi đó, lạm phát tính theo năm tại VN đã trên 12%. Khoảng cách chênh lệch 6 - 7% hoặc cao hơn nữa so với các nước rõ ràng là do yếu tố nội tại, là do căn bệnh của nền kinh tế. Đó cũng là sự trả giá cho việc chạy theo mục tiêu tăng trưởng. Ước tính giá xăng dầu chỉ tác động làm tăng lạm phát thêm khoảng 2%, nhưng hiện tượng “té nước theo mưa” đã góp phần đẩy giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao.

Theo ông, VN có khả năng kiềm chế lạm phát dưới 10% trong năm? Những giải pháp nào cần ưu tiên để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế?

- VN vẫn có khả năng kềm chế lạm phát năm 2011 dưới 2 con số. Nghị quyết 11 sau 1 tháng triển khai đã phát huy hiệu quả và cho thấy các giải pháp của Chính phủ là đúng hướng. Về tỉ giá, hiện tỉ giá USD trên thị trường và tỉ giá niêm yết đã gần sát nhau, cung - cầu khá ổn định. Thị trường ngoại tệ và thị trường vàng đang đi vào nền nếp luật pháp.

Nhập siêu trong quý I giảm còn 3 tỉ USD, bình quân mỗi tháng 1/2010 tỉ USD. Đầu tư công đã được cắt giảm 1.387 dự án trên cả nước với tổng trị giá 3.400 tỉ đồng - đây là giải pháp chống lạm phát quan trọng vì từ trước đến nay hiệu quả sử dụng vốn khu vực đầu tư công rất thấp... Bên cạnh đó, Chính phủ cũng tăng cường các biện pháp an sinh xã hội và hỗ trợ DN như trợ khó khăn cho CB- CC và hộ nghèo, dãn thuế thu nhập DN...

Nhìn chung, Nghị quyết 11 là toa thuốc đúng. Vấn đề là phải điều trị lâu dài, kiên trì và đúng liều lượng, phải có mục tiêu trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đợt khủng hoảng 2008, VN đã kiềm chế lạm phát hiệu quả, nhưng đến 2010 lạm phát lại bật dậy, một phần do thiếu giải pháp dài hạn.

Cụ thể cần tăng - giảm liều lượng đối với những giải pháp nào?


- Việc cắt giảm đầu tư công và chống nhập siêu phải tăng thêm liều lượng. Mức cắt giảm đầu tư công trong đợt vừa qua vẫn còn nhỏ so với mong muốn, chỉ đạt tỉ lệ hơn 1% tổng đầu tư công hằng năm (năm 2010 là 316.000 tỉ đồng), cần cắt giảm ít nhất 30.000 tỉ đồng nữa thì tổng cầu mới có thể giảm sâu. Dĩ nhiên, việc cắt giảm phải có chọn lọc. Về nhập siêu, cần tiếp tục giảm nhập siêu qua việc hạn chế nhập các mặt hàng xa xỉ, hỗ trợ bằng chính sách thuế cho các DN sản xuất hàng VN thay thế hàng nhập khẩu.

Chính sách điều hành tỉ giá trong thời gian qua hợp lý, nhưng người dân vẫn còn gặp khó khăn khi mua ngoại tệ mặt. Theo tôi, trong giai đoạn này cần cho phép các NH thương mại thu phí bán ngoại tệ mặt vì hiện giá mua, giá bán sát nhau, nếu bán, NH sẽ bị lỗ. Ở các nước khác không đặt ra phí bán ngoại tệ mặt do NH không bị khống chế giá trần và giá mua, giá bán chênh lệch rất cao.

Thắt chặt tiền tệ cũng là giải pháp quan trọng chống lạm phát, nhưng nếu làm quá liều thì sẽ tai hại cho nền kinh tế. Hiện các DN gặp khó khăn trong đầu tư sản xuất kinh doanh vì lãi suất quá cao. Thắt chặt tiền tệ bằng hạn mức tín dụng là hợp lý, nhưng nếu cứ duy trì lãi suất cao, nhiều DN khó tránh khỏi phá sản. Các DN trong nước cần được khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng với lãi suất đầu ra trên dười 20% thì DN không dám vay vốn để tái cấu trúc.

Một khi sản xuất trong nước đình trệ, nhập siêu sẽ càng cao hơn. Lãi suất cao do một số NH nhỏ đầu tư nhiều và các lĩnh vực phi sản xuấ t- như thị trường nhà đất - nay bị khát vốn và tìm mọi cách tăng lãi suất đầu vào. Các NH khác sợ mất khách hàng cũng phải tăng theo. Để ổn định lãi suất cần có giải pháp đối với hệ thống NH thương mại: kiểm tra và đặt một số NH vào diện kiểm soát đặc biệt, đồng thời can thiệp để đảm bảo thanh khoản.

- Xin cảm ơn ông!

(Báo Lao Động)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • Thực phẩm nhiễm xạ tại Nhật khó “lọt” vào Việt Nam
  • Vấn nạn Mũ Bảo hiểm rởm: Bắt dễ phạt khó
  • Siết mạnh nhập khẩu sẽ gây trở ngại cho nền kinh tế
  • TS. Lê Xuân Nghĩa: Cán cân tổng thể năm 2011 sẽ cân bằng
  • TS. Võ Trí Thành: CPI tháng 4 có thể tăng 14,8% so với cùng kì
  • 'Cần ưu đãi doanh nghiệp nhỏ thay vì quá bao bọc ông lớn'
  • Tháng 4, thuốc bình ổn giá sẽ có ở 400 nhà thuốc
  • Hàng hóa Việt Nam vào Campuchia: Hai rào cản lớn!
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi