Khai thác quặng đồng tại mỏ đồng Sin Quyền (Lào Cai). (Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN)
Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã được Bộ Tài chính chấp thuận phương án tăng giá than bước 1 từ 20-40%, tùy từng loại than kể từ ngày 1/4.
TKV lí giải việc bắt buộc phải tăng giá bán than trước tiên xuất phát từ việc do giá cả đầu vào tăng rất cao để bù đắp chi phí, mặc dù ngành than đã có nhiều giải pháp công nghệ, quản lý và phải tiết kiệm tối đa các khoản chi phí.
Theo cơ chế thị trường, để đảm bảo hàng hóa lưu thông bình thường, tránh trường hợp mua than với giá rẻ trong nước rồi đem đi xuất khẩu kiếm lời, giá than phải được điều chỉnh đủ theo tinh thần Thông báo số 244/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ ngày 11/8/2009. Tuy nhiên, để không làm tăng đột biến, góp phần kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết 11 của Chính phủ, TKV đã đề nghị tăng giá than ở bước 1.
Theo TKV, hiện nay do giá cả đầu vào tăng cao (xăng dầu tăng 2 lần khoảng 40%), tỷ giá tăng 9,3%, lãi vay tăng cao, thuế xuất khẩu than tăng từ 10% lên 15%... Chỉ tính yếu tố xăng dầu, sắt thép chống lò, tỷ giá, lãi vay đã làm tăng giá thành than khoảng 3500 tỷ đồng, thuế xuất khẩu làm tăng 1.300 tỷ đồng. Vì vậy, nếu giá than không được điều chỉnh, tình hình tài chính của TKV sẽ gặp khó khăn. Trong khi giá than bán cho điện mới bằng khoảng 60% giá thành thì lần này chỉ được tăng 5%.
Giá than cho các hộ ximăng, giấy, phân bón được thực hiện theo giá thị trường than trong nước (trừ than bán cho điện) thấp hơn giá xuất khẩu tối đa là 10%. Trong khi đó, giá than ở thị trường trong nước trước 31/3/2011 chỉ bằng khoảng 60% giá than xuất khẩu, giá than bán cho các hộ ximăng, giấy, phân bón bằng khoảng 50% giá than xuất khẩu.
Sở dĩ giá than trong nước thấp hơn nhiều so với giá than xuất khẩu là do trong năm 2010 nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát cho nên giá than cho các hộ xi măng, giấy, phân bón đã không được điều chỉnh.
TKV cũng cho biết, để cân đối vốn đầu tư cho sản xuất than khoảng 15.000 tỷ đồng/năm phải có vốn đối ứng 3000 tỷ đồng/năm, tương đương phải có lợi nhuận khoảng 6000 tỷ đồng/năm. Nhưng kế hoạch cân đối đầu năm thì lợi nhuận sản xuất than năm 2011 chỉ khoảng 3.500 tỷ đồng. Như vậy chưa đủ để Tập đoàn có vốn đối ứng để đầu tư phát triển.
Xét về lợi nhuận trên vốn kinh doanh, TKV ít nhất phải đảm bảo cao hơn lãi suất ngân hàng, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa đạt. Lợi nhuận trên doanh thu sau khi tăng giá than khoảng 9% (4.500/52.000 tỷ đồng), trong khi lãi suất vay ngân hàng từ 17-18%/năm.
Việc điều chỉnh giá than lần này nhằm từng bước đảm bảo hiệu quả kinh doanh của ngành than theo từng giai đoạn, vừa bù đắp giá cả đầu vào liên tục biến động theo hướng tăng lên và điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, vừa tạo điều kiện cho ngành tiếp tục cải thiện điều kiện ăn ở, đi lại, trang bị an toàn... nhất là đối với công nhân khai thác hầm lò.
Điều quan trọng nhất là ngành than bảo toàn được vốn để duy trì năng lực sản xuất và có vốn đối ứng vay đầu tư phát triển tăng sản lượng phục vụ cho nhu cầu than tăng cao trong các năm tới./.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
"Tính toán bài toán tiền lương giống như đi thăng bằng trên dây vậy. Quả thật là vô cùng khó khăn", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân nói với VnEconomy như vậy khi trao đổi xung quanh vấn đề lương tối thiểu và việc thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia.
Vụ cháy tại cây xăng ở Hà Nội mới đây cùng với việc phát hiện rút ruột xăng xe bồn tại Quảng Ninh đã làm nóng lên câu chuyện quản lý kinh doanh xăng dầu, tại cuộc họp của do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/6.
Thông tin sân bay Phú Bài (Thừa Thiên - Huế) đóng cửa để sửa chữa đã được loan đi trên báo chí từ cách đây 2 tháng. Tuy nhiên đến thời điểm này, câu hỏi chính xác là ngày nào đóng cửa, phải ứng phó với “sự cố” này ra sao, vẫn chưa được trả lời.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng ban Kinh doanh của Tổng Công ty Điện lực Hà Nội cho biết: năm nay công tác dịch vụ sẽ được quan tâm đề cao hơn, đặc biệt quan tâm đến công tác thông báo lịch cắt điện để từ đó có thể chủ động trong mọi tình huống.
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành quyết định về việc điều chỉnh giá bán điện theo cơ chế thị trường với thời gian điều chỉnh giữa hai lần liên tiếp có thể chỉ sau 3 tháng. Quyết định này có hiệu lực từ 1/6/2011.
Hiện nay, tại Việt Nam, dịch vụ thu phí không dừng, ứng dụng thiết bị OBU đã được ngân hàng Vietinbank phối hợp cùng với các Bộ, Ban ngành, các đơn vị chủ quản triển khai và đưa vào sử dụng tại Trạm thu phí cầu Cần Thơ.
Chiều 28/3, tại Hà Nội, Đại sứ quán Anh đã tổ chức hội thảo về khuyến khích sử dụng năng lượng hiệu quả tại Việt Nam và công bố báo cáo nghiên cứu tiềm năng thị trường “Tiết kiệm Năng lượng tại Đông Nam Á và Cơ hội Đầu tư”.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.