Mười một tháng đầu năm, ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
1. Tình hình chung:
Tháng 11 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 64.411 tỷ đồng tăng 3,6% so với tháng 10/2009 và tăng 13% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 17,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 3,3%, các ngành khác tăng 16,1%).
Tính chung mười một tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 631.871 tỷ đồng tăng 7,3% so với cùng kỳ (thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,6%, chiếm trọng 24,2% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,4% chiếm tỷ trọng 35,1% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,7% (trong đó dầu khí tăng 9,6%, các ngành khác tăng 7,5%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 5,4%, công nghiệp địa phương tăng 7,7%.
Mười một tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá (cao hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: dầu thô khai thác tăng 13,5%, thuốc lá điếu tăng 12,1%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 17%, xà phòng giặt tăng 19,6%, xi măng tăng 18,5%, thép tròn các loại tăng 18,9%, điều hoà nhiệt độ tăng 46,1%, tủ lạnh, tủ đá tăng 31,4%, điện sản xuất tăng 13%, nước máy thương phẩm tăng 9,7% so cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm có tăng trưởng ở mức thấp (thấp hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: than sạch tăng 5,6%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,6%, đường kính tăng 0,3%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2%, lốp ô tô, máy kéo tăng 2,5%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,9%, máy giặt tăng 0,7%, xe máy tăng 7,2%.
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có khí đốt thiên nhiên đạt 99,4 %, khí hóa lỏng (LPG) đạt 88,2%, thuỷ hải sản chế biến đạt 92,8%, sữa bột đạt 89,3%, bia đạt 99,6%, vải dệt từ sợi bông đạt 86,7%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,2%, giày thể thao đạt 94,4%; giấy, bìa các loại đạt 85,9%, phân hóa học đạt 94,8%, sơn hoá học đạt 99,9%, kính thuỷ tinh đạt 93,6%, gạch lát ceramic đạt 93,7%, bình đun nước nóng đạt 84,1%, tivi đạt 93,7%, ô tô đạt 93,4% (trong đó xe tải đạt 93%, xe chở khách đạt 93,8%) so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ mười một tháng đầu năm 2009 một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao hơn bình quân toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 8,6%; Quảng Ninh tăng 12,8%; Thanh Hóa tăng 13%; Khánh Hoà tăng 8%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 7,4%; Bình Dương tăng 9,2%; Đồng Nai tăng 9,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,2%. Một số tỉnh thành phố có mức tăng trưởng thấp hơn trung bình toàn ngành gồm: Hải Phòng tăng 7%; Vĩnh Phúc tăng 2,6%; Hải Dương tăng 4,8%; Phú Thọ tăng 3,4%; Đà Nẵng tăng 5%;
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Mười một tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp (một phần do việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nên tỷ trọng của khối doanh nghiệp này giảm xuống so với toàn ngành); trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng khá cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và xuất khẩu, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng cao đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt tăng trưởng cao thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: trong tháng 11 giá dầu thô tăng so với các tháng trước (hiện ở mức 77-81 USD/thùng) tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước (ngày 20/11/2009 xăng A92 tiếp tục tăng lên 16.300 đ/lít, sau khi đã tăng giá lên 15.500 đ/lít vào ngày 24/10/2009), tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam tăng đáng kể (lên mức gần 18.000 đ/USD theo tỷ giá ngân hàng ngày 24/11/2009, trong khi tỷ giá ngoài thị trường tự do lên mức 19.750 đ/USD) tạo áp lực cho các doanh nghiệp cần ngoại tệ để nhập khẩu và trực tiếp ảnh hưởng tăng giá hàng hoá (nhập khẩu hoặc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu) trên thị trường, giá thép xây dựng do nhà sản xuất tăng lên mức 12 triệu đồng/tấn (thép tại thị trường đã tăng lên mức 12,5-13 triệu đồng/tấn so với mức 11,5-12 triệu đồng/tấn vào tháng trước); giá phân bón đạm urê và phân DAP tăng 500-700 nghìn đồng/tấn (phân urê 6 triệu đồng/tấn, phân DAP 7,2 triệu đồng/tấn) do giá quốc tế tăng nhưng lượng tồn kho trong nước vẫn ở mức cao; giá thức ăn gia súc cũng tăng cao (hiện ở mức 200 nghìn đồng/bao 25 kg, tăng 10.000 đồng so với đầu tháng). Như vậy việc tăng giá hầu hết các mặt hàng sẽ tạo áp lực lên các nhà sản xuất và người tiêu dùng, tăng chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát vào các tháng cuối năm 2009.
2. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 11/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,25 triệu tấn giảm 4,3% so với tháng 10/2009 và giảm 5,6% so với cùng kỳ (nguyên nhân do sụt giảm sản lượng ở một số mỏ mới đi vào khai thác), lũy kế mười một tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 15,25 triệu tấn tăng 13,5% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất mười một tháng đầu năm ước đạt 38,77 triệu tấn tăng 5,6% so với cùng kỳ, trong đó riêng Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt nam xuất khẩu 21,6 triệu tấn tăng 29,1% so cùng kỳ.
- Điện sản xuất mười một tháng đầu năm đạt 73,4 tỷ kwh tăng 13% so với cùng kỳ, đây là mức tăng khá cao so với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp (7,3%), nguyên nhân do nhu cầu điện sinh hoạt vẫn ở mức cao.
- Phân hóa học (không tính phân NPK) mười một tháng đầu năm sản xuất ước đạt 2,2 triệu tấn giảm 5,2% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại mười một tháng đầu năm sản xuất đạt 4,2 triệu tấn tăng 18,9% so cùng kỳ.
- Xi măng mười tháng đầu năm ước đạt 43,5 triệu tấn tăng 18,5% so cùng kỳ./.
(Vinanet)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com