Giá các nguyên liệu đầu vào như bông, sợi tổng hợp… đang giảm nhanh. Kinh tế thế giới suy thoái, dự báo nhu cầu tiêu thụ dệt may thế giới trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 giảm. Hàng dệt may giá rẻ lên ngôi. Mặc dù giá bông và sợi tổng hợp đã và đang giảm nhanh, ngành dệt may thế giới tiếp tục gặp khó khăn trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 do ảnh hưởng bởi sự suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới, nhất là Mỹ - thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới.
Giá bông thế giới giảm khá mạnh. Tính tới cuối tháng 10, giá bông đã giảm khoảng 33% đối với hợp đồng giao kỳ hạn tháng 12/2008, giảm từ 70,18 US cent/lb xuống 46,67 US cent/lb. Giá bông giao kỳ hạn tháng 03/2009 cũng 20% và so với tháng 9 và giảm tới 33% so với thời điểm tháng 8. Sản lượng bông thế giới tăng và giá sợi nhân tạo giảm nhờ dầu mỏ giảm giá đã làm dịu lại thị trường bông thế giới trong tháng qua. Uỷ ban Tư vấn Bông Quốc tế (ICAC) dự báo các nhà máy bông thế giới sẽ tiêu thụ tổng cộng 26,2 triệu tấn bông trong năm 2008/09, giảm 1% so với năm trước, do tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại. Mức tăng tiêu thụ bông thế giới dự báo sẽ giảm 0,33% trong năm 2008, so với mức tăng 1,47% năm ngoái.
Các nước đang phát triển chiếm tới 60% tiêu thụ sản phẩm dệt may toàn cầu. Kinh tế thế giới suy yếu, với tổng sản phẩm quốc nội ở các nước đang phát triển dự kiến giảm xuống 6,7% trong năm nay, so với mức 7,8% năm 2007 sẽ làm giảm tốc độ tăng tiêu thụ các sản phẩm dệt may của nhóm quốc gia này từ 4% xuống 2%.
Giá sợi tổng hợp đang trở nên có sức cạnh tranh hơn so với sợi cotton. So với cùng kỳ năm ngoái, giá bông hiện tại đã giảm 27%, và giá các loại sợi tổng hợp như polyester, viscose… cũng đã giảm khá mạnh từ 30 – 50% so với hồi tháng 7. Nguyên nhân của đợt giảm giá này là giá dầu thô đã giảm hơn 50% so với hồi đỉnh cao tháng 7 và giảm hơn 15% so với thời điểm tháng trước. Tính đến ngày 1/11/2008 giá dầu thô chỉ còn ở mức 63 USD/thùng và thấp hơn rất nhiều so với mức đỉnh cao 150 USD/thùng hồi tháng 7. Giá sợi tổng hợp có quan hệ chặt chẽ với giá dầu mỏ. Tuy nhiên, với các công nghệ sản xuất được cải thiện, không những ảnh hưởng trực tiếp của giá dầu thô đối với sản lượng và giá sợi tổng hợp ngày càng giảm xuống, mà giá sợi tổng hợp cũng ngày càng rẻ hơn. Giá dầu đã liên tục giảm trong mấy tháng qua, đem lại hy vọng giảm giá sợi tổng hợp hơn nữa trong những tháng tới.
Tuy giá dầu giảm nhiều so với mức đỉnh cao, song vẫn cao hơn nhiều so với mấy năm trước đây, làm tăng các chi phí khác của ngành dệt may. Hơn nữa, kinh tế thế giới, đặc biệt là Mỹ, suy yếu càng gây ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng dệt may của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước châu á. Các công ty dệt may ở ấn Độ và Trung Quốc, cũng như nhiều nơi khác ở Đông Nam á và Trung á đều đang cảm nhận được những tác động này. Và người tiêu dùng phải mua quần áo với giá cao nhiều so với chỉ một năm trước đây, và tình cảnh này dự kiến chưa thể sớm chấm dứt.
Các số liệu thống kê chính thức của Mỹ cho thấy trong 8 tháng đầu năm 2008, Mỹ nhập khẩu 61,6 tỷ USD hàng dệt và may mặc, giảm 3,68% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, giá trị hàng dệt may của Trung Quốc xuất sang thị trường Mỹ giảm 1,72%, còn 20,6 tỷ USD; Pakixtan giảm 4,67%; Sri Lanca giảm 9,9%; Mexico giảm 11,5%; ấn Độ giảm 1,56%; Italia giảm 3,38%.... Xuất khẩu hàng dệt và quần áo của Việt Nam tăng 21,93% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 3,536 tỷ USD; xuất khẩu của Băngladesh cũng tăng 6,17%.
Hiện tại, các nước cung cấp chính đang phụ thuộc nặng nề vào thị trường may mặc Mỹ và EU. Chẳng hạn, xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 55% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt nam. Khoảng 1 nửa xuất khẩu dệt may của Pakistan là vào Mỹ. ấn Độ và Bănglađét cũng xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu sang hai thị trường dệt may hàng đầu thế giới này. Kinh tế Mỹ và EU yếu đi làm cho các đơn hàng mua của họ thấp hơn.
Hàng dệt may xuất khẩu của Trung Quốc đang mất dần sức cạnh tranh so với các nước sản xuất hàng dệt may khác của châu á, do nhu cầu từ thị trường Mỹ giảm, các quy định mới của chính phủ Trung Quốc đối với các nhà sản xuất, chi phí lao động tăng và đồng nhân dân tệ tăng giá so với đồng USD. ở Trung quốc, chi phí lao động tăng khi luật mới sẽ bảo vệ công nhân hơn, về lý thuyết sẽ dẫn đến tăng chi phí. Việc tăng giá đồng NDT khiến các nhà xuất khẩu Trung quốc phải chuyển sang các sản phẩm có chất lượng và giá cao hơn bên cạnh việc mở rộng thị trường của mình sang các nước khác. Do đó, trong bối cảnh hiện nay hàng dệt may của Trung Quốc càng mất đi lợi thế.
Theo số liệu thống kê, doanh số bán hàng dệt may của Trung Quốc tại các thị trường nước ngoài 7 tháng đầu năm 2008 đã tăng chậm lại ở mức một con số, so với mức tăng 24,4% cùng kỳ năm ngoái, và vẫn đang tiếp tục giảm. Xuất khẩu sản phẩm dệt may của Trung Quốc 9 tháng đầu năm nay chỉ tăng 8,1% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi mức tăng trưởng của cùng kỳ năm ngoái là 11,9%, đạt 136 tỷ USD. Dự kiến xuất khẩu sản phẩm dệt may của Trung Quốc sẽ còn tiếp tục tăng chậm lại, với mức tăng trưởng ở thời điểm cuối năm 2009 sẽ chỉ đạt 4,26%, so với mức 19,96% giữa năm 2008, do đồng Euro giảm giá và nền kinh tế EU suy yếu.
Trong khi đó, các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ đang yêu cầu chính phủ nước này giám sát sản phẩm dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc để tránh phải cạnh tranh không công bằng với các sản phẩm nhập khẩu đó khi chế độ hạn ngạch nhập khẩu được xóa bỏ vào cuôốinăm nay. Thỏa thuận về hạn ngạch giữa Washington và Bắc Kinh vào năm 2005 sẽ hết hạn khi kết thúc năm 2008, khiến ngành dệt may Mỹ lo ngại sản phẩm dệt may giá rẻ của Trung Quốc sẽ cạnh tranh mãnh liệt trên sân nhà của Mỹ.
Xu hướng hiện nay cho thấy, các nước Nam á và Đông Nam á đã nổi lên thành nguồn cung quan trọng đối với các khách hàng Mỹ và EU.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
Theo đánh giá của hãng tin AFP, ngành dệt may của Việt Nam có nhiều điểm đáng để Bangladesh học tập, nhất là sau vụ sập nhà máy may khiến hàng trăm người thiệt mạng ở nước này mới đây.
Hiện một số công ty may mặc đã có đơn hàng xuất khẩu sang Nhật Bản cho năm 2013, hứa hẹn xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt trong năm tới.
Khủng hoảng tài chính ở Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến hàng dệt may (DM) của các nước châu Á xuất khẩu (XK) vào thị trường Mỹ và các nước EU giảm mạnh, trong đó có Việt Nam.
Trung Quốc đang ngày càng phụ thuộc vào thị trường may mặc của Hoa Kỳ và EU, 2 thị trường chiếm tới 64% thương mại toàn cầu về may mặc (theo dữ liệu từ tổ chức thương mại thế giới WTO). Xuất khẩu từ Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ và Băng-la-desh mới tăng nhanh trong khi đó thị phần của Trung Quốc trên thị trường toàn cầu đã tăng lên từ năm 2000. Xuất khẩu hàng may mặc của EU ở mức không đáng kể, trái ngược hẳn với mức xuất khẩu của Hoa Kỳ.
Thị trường Mỹ đang chiếm tỷ trọng lớn với khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm. Tuy nhiên, từ tháng 2/2009, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ sẽ khó khăn hơn.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.