Theo lịch Chăm, lễ hội Katê diễn ra vào ngày đầu tháng 7, tức khoảng tháng 9 hoặc 10 dương lịch. Việc tính lịch Chăm và quyết định ngày Katê dường như chỉ có những vị chức sắc tôn giáo, già làng biết, còn người trẻ không rành lắm
Ngọn tháp cuối cùng được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 mang tên vị vua Pô Rôme nằm trên một ngọn đồi thuộc làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Cộng đồng người Chăm ở đây vẫn lưu giữ những hoạt động tinh thần gắn với các đền đài. Lễ hội Katê là một hoạt động tiêu biểu thể hiện đời sống tâm linh đó với những nét đặc trưng được truyền đời qua nhiều thế kỷ.
Xem hành lễ mặc y trang cho vua
Ở Ninh Thuận có ba cụm tháp Chàm nổi tiếng: Hòa Lai (Ba tháp), Pô Rôme và Pô Klong Garai. Thế nhưng chỉ còn hai tháp có giá trị tín ngưỡng vì tháp Hòa Lai đã gần như hoang phế và hiện tại đã sụp đổ hết một tháp. Bên trong hai tháp Pô Rôme và Pô Klong Garai (1151 – 1205) thờ tượng bằng đá hai vị vua mang tên tháp dưới hình thể Mukhalinga (bộ sinh thực khí). Khi sống, các ngài là những vị vua hiền có công với cộng đồng. Khi qua đời, các ngài được đồng bào Chăm thờ cúng như những vị thần. Lễ hội Katê diễn ra tại hai ngôi tháp này cùng một thời gian và các nghi thức diễn ra giống nhau.
Trước khi hành lễ tại các tháp, người Chăm tổ chức lễ trước một ngày để đón rước y trang từ người Raglai tại đền Pô Nưgar (đền thờ thần mẹ xứ sở – xây năm 1942 ở thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước). Theo truyền thuyết, người Raglai là em út của người Chăm có nhiệm vụ giữ gìn y trang để mỗi năm trao lại cho người Chăm. Các lễ hội Katê đều có sự tham dự của người Raglai với các điệu múa đặc sắc dâng lên thánh thần. Đây được xem như ý thức đoàn kết các dân tộc cùng sống trên địa bàn Ninh Thuận đã có ngàn đời nay.
Nghi lễ tắm và mặc y trang cho nhà vua là nghi lễ kỳ bí nhất vì diễn ra bên trong tháp. Sau khi vị cả sư và ông từ giữ tháp làm lễ mở cửa tháp, đoàn người gồm cả sư, bà bóng, thầy kéo đàn Kanhi và các giáo đồ trung tín tiến vào tháp. Vị cả sư cầm lọ nước thánh tắm tưới lên tượng thần, nước thánh có pha trầm hương. Mọi người trong ban hành lễ cùng bắt tay vào tắm cho nhà vua. Lễ mặc y trang cho vua diễn ra ngay sau đó nhịp nhàng theo các câu hát của thầy kéo đàn Kanhi. Thầy kéo đàn Kanhi kết thúc bài hát đầu tiên thì cả sư, bà bóng... đã mặc xong váy cho vua. Cứ như thế y trang lộng lẫy được khoác lên tượng ngài theo các lời hát. Nghi lễ tắm và mặc y trang cho nhà vua diễn ra thành kính đầy tính tâm linh. Những người được tắm cho vua còn thấm nước trên tượng ngài bôi lên đầu mình để cầu may mắn, sức khỏe. Thầy kéo đàn Kanhi là người giữ nhịp cho buổi lễ, mỗi bài thầy hát đều mang một ý nghĩa tín ngưỡng và tưởng nhớ tổ tiên.
Đến nay, lễ hội Katê tại đây đã mang tầm vóc quốc gia, không chỉ thu hút cộng đồng người Chăm trên cả nước tụ về mà còn lôi cuốn du khách các nơi đến tham quan.
Vui tết Katê ở paley Mỹ Nghiệp
Paley có nghĩa là làng. Chúng tôi đã theo lời mời của anh Lưu Quí Đôn về nhà anh ở làng Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước. Như bao gia đình khác trong làng Mỹ Nghiệp, nhà anh Lưu Quí Đôn cũng làm nghề dệt. Gần như tất cả các gia đình ở Mỹ Nghiệp đều làm nghề dệt. Gia đình anh Lưu Quí Đôn rất hiếu khách, trên mặt luôn rạng rỡ nụ cười và sẵn sàng hát các bài hát Chăm. Trên mâm cơm đãi khách có nhiều món ăn và rượu do gia đình anh nấu nhưng tuyệt đối không có thịt bò. Lễ hội Katê là lễ hội của người Chăm theo đạo Bà-la-môn nên bò là linh vật. Người Chăm Ninh Thuận theo hai tín ngưỡng Bà-la-môn và đạo Hồi Bàni. Mỗi cộng đồng tín ngưỡng có lễ hội riêng của mình. Theo lịch Chăm, lễ hội Katê diễn ra vào ngày đầu tháng 7, tức khoảng tháng 9 hoặc 10 dương lịch. Việc tính lịch Chăm và quyết định ngày Katê dường như chỉ có những vị chức sắc tôn giáo, già làng biết, còn người trẻ không rành lắm.
Anh Lưu Quí Đôn khoe: “Làng tôi nổi tiếng gái đẹp và dệt thì đứng nhất”. Sau lời khoe, anh Đôn gọi ngay các bà, các chị trong nhà biểu diễn trên các khung dệt cho khách vừa xem vừa trầm trồ. Làng Mỹ Nghiệp có tên Chăm là Caklaing, theo truyền thuyết đây là nơi sinh ra vị vua Pô Klong Garai, vị vua được người Chăm tôn thờ như thần thủy lợi vì đã có công dẫn thủy nhập điền gắn với đời sống nông nghiệp địa phương. Ngồi ở làng Chăm, nghe những truyền thuyết về các vị vua một thời cũng là một nét độc đáo cuốn hút du khách. Truyền thuyết về vị vua cuối cùng Pô Rôme có lẽ là nhiều nhất với những thiên tình sử đầy bi đát giữa ngài và công chúa người Êđê – bia Than Chan và công chúa Ngọc Khoa nước Đại Việt.
Từ bản Tả Phìn đến thị trấn Sa Pa (Lào Cai) là đoạn đường đèo ngoạn mục với cảnh quan diễm lệ. Những thửa ruộng bậc thang xanh xanh với nào lúa nước, su su chạy dài ngút mắt bên dưới lũng sâu.
ừ thị trấn Kiên Lương (Kiên Giang) đi Mo So có một đoạn đường đầu tiên ở nước ta được đổ bê tông xi măng thay vì trải nhựa như thường thấy; rồi thích thú chứng kiến những ngọn núi đá vôi chập chùng chạy ngược bên khung cửa xe. Theo con đường nhựa nổi lên giữa những đồng nước chua phèn lưa thưa cây cỏ vàng hoe màu nắng, Mo So rồi cũng hiện ra trước mắt.
Ở trung tâm thành phố Cần Thơ có những ngôi chùa cổ ra đời hàng trăm năm trước, không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng mà còn chữa bệnh cứu người, tế độ chúng sinh. Hãy cùng chúng tôi ghé thăm chùa Hiệu Minh (Đàn Tiên Cái Khế) - một ngôi chùa như vậy.
Những ngày này, khi lúa, ngô đã “nằm yên” trong nhà, cũng là lúc đồng bào dân tộc thiểu số Chơro ở Đồng Nai tổ chức lễ hội Sayangva (ăn thần lúa).
Cây tre đã gắn bó với người Việt hàng ngàn đời nay. Tre là nguyên liệu được người Việt khai thác tối đa sự hữu dụng tưởng như vô hạn; từ những vật dụng gần gũi, thiết thân trong đời sống thường nhật cho đến khí cụ chiến đấu, bảo vệ quê hương. Hình ảnh lũy tre thanh bình, thơ mộng trong thi ca, trong bao chuyện tình lãng mạn và cả trong huyền sử Thánh Gióng.
Vùng đất Cát Tiên từ lâu đã được biết đến là một thánh địa bí ẩn bị vùi chôn trong lòng đất suốt một ngàn hai trăm năm qua. Và còn có một Cát Tiên khác, Cát Tiên của màu xanh bạt ngàn. Ngày Xuân, chúng tôi du hành về thăm miền đất linh thiêng nằm giữa đại ngàn Tây Nguyên.
Trên dải đất biên giới Việt - Lào ở Sơn La, ngoài các dân tộc Thái, Kinh, Khơ Mú sinh sống, còn có khoảng ba bốn vạn bà con Xinh Mun định cư lâu đời. Xinh Mun nghĩa là người ở núi, trước đây còn gọi là người Puộc (Côn Pụa).
Hội mùa là ngày hội lớn, có từ lâu, rất phổ biến ở Tây Nguyên, tương tự như ngày Tết của đồng bào Kinh. Hội mùa được người Gia Rai gọi là Pơtrưm, người Ba Na gọi là Samok, thường tổ chức vào tháng 12 dương lịch.
Theo lời kể của các nghệ nhân, nguồn gốc múa Xuân Phả có từ thời nhà Đinh dẹp loạn 12 xứ quân. Hàng năm, vào các ngày 10 và 11/2 âm lịch, lễ hội Xuân Phả được tổ chức tại làng Xuân Phố (nay là Xuân Phả) thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân (Thanh Hoá).
Lễ cưới của người Dao ngày nay đã được đơn giản hóa và trai gái cũng không kết hôn quá sớm. Còn trước đây, khi các cậu trai, cô gái dân tộc Dao đến tuổi 12-13, cha mẹ họ đã lo tìm vợ, gả chồng. Nếu bố mẹ chàng trai thấy vừa mắt một cô gái nào đó thì ngay lập tức chuẩn bị lễ vật sang xin dâu.
Đối với nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong hệ thống lễ nghi vòng đời người, lễ cưới là lễ hội quan trọng nhất. Nếu lễ cưới của người Kinh thường diễn ra vào mùa đông thì lễ cưới của các dân tộc thiểu số được chọn vào lúc thu hoạch xong mùa múa rẫy. Mùa ấy cũng đồng thời diễn ra nhiều lễ hội khác như lễ mừng mùa, lễ chúc phúc, lễ tạ ơn thần linh... cho nên người ta gọi là mùa “ăn năm uống tháng”.
Nói tới Tây Bắc, người ta hay dùng đến hai chữ "khám phá". Những câu chuyện kỳ thú về cách ăn nếp ở của những con người trên những vùng cao nguyên cực Bắc tổ quốc, nơi cư ngụ của rất nhiều dân tộc anh em, như vẫn còn chờ các vị khách miền xuôi khám phá. Một vài câu chuyện cóp nhặt trên đường…
Người Dao Tiền Bắc Kạn sống rải rác ở các huyện Ba Bể, Ngân Sơn… là dân tộc có nền văn hoá đặc sắc riêng biệt Trang phục của người Dao Tiền cầu kì, tinh tế nhưng phù hợp với tập quán và tập quán lao động sản xuất của mình. Khác với người Dao đỏ hoạ tiết trong trang phục chủ yếu là màu đỏ thì người Dao Tiền Bắc Kạn màu sắc chủ đạo trong trang phục là màu chàm và màu trắng rất tinh tế nhưng nhã nhặn, hài hoà.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”