Theo lời kể của các nghệ nhân, nguồn gốc múa Xuân Phả có từ thời nhà Đinh dẹp loạn 12 xứ quân. Hàng năm, vào các ngày 10 và 11/2 âm lịch, lễ hội Xuân Phả được tổ chức tại làng Xuân Phố (nay là Xuân Phả) thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân (Thanh Hoá).
Để chuẩn bị cho lễ hội, làng phải chọn những trai thanh, nữ tú, có đạo đức tốt, tổ chức tập luyện trước Tết những 2 tháng. Trò múa Xuân Phả có 5 điệu: 1 - Trò múa Hoa Lan: Có 2 người đội lốt kỳ lân ra múa. Tiếp đó, có ông chúa múa siêu đao và 2 quân múa đấu ngựa. Theo sau là đoàn quân 10 người múa quạt. Đoạn kết múa chèo thuyền thay lời tạm biệt kẻ ở, người đi. Phục trang cho phần múa này là áo dài tứ thân màu xanh nước biển, quần trắng mũ da bò cong 2 đầu. 2 - Trò múa Chiêm Thành: Đoạn đầu có 2 phỗng múa dâng hương. Đoạn sau có nhân vật chúa dẫn đoàn 10 người múa.
Phần kết múa tung hoa. Phục trang gồm mũ vải đỏ có sừng 2 bên, áo và khăn đều màu đỏ. 3 - Trò múa Lục Hồn Nhung: Mở đầu có một cụ già chống gậy, theo sau là đoàn gõ sênh. Tất cả tựa như đàn con vây quanh người mẹ. Phục trang múa gồm áo dài xanh đen, lưng thắt khăn nâu, đầu đội tóc trắng. 4 - Trò múa Ai Lao: Một người đội lốt hổ chạy mở đầu. Hai người đội lốt voi ra múa ngẫu hứng, mở đường. Chúa Lào (đội mũ cánh chuồn, áo thụng xanh chàm) xuất hiện, hai bên có lính bảo vệ. Cả đoàn đi trong tiếng sênh tre được gõ nhịp liên hồi, biểu hiện sức mạnh các chàng trai đi săn. 5 - Trò múa Ngô Quốc: Mở đầu có người bán thuốc, người bán kẹo và thầy địa lý múa một đoạn ngẫu hứng rồi nhường chỗ cho hai nàng tiên và đoàn quân đi ra. Đoàn này múa quạt và khăn, tiếp đó múa mái chèo.
Về phần âm nhạc, các trò múa Xuân Phả thường dùng bộ gõ dân tộc, như trống, mõ, thanh la, não bạt, rất độc đáo và gây ấn tượng mạnh. "Bỏ cửa, bỏ nhà, bỏ gạo chó ăn..." - khi nghe tiếng nhạc cụ của trò múa này vang lên, mọi người đều đứng ngồi không yên. Người ta gọi là trò Xuân Phả bởi có phần diễn mở đầu của các nhân vật và con vật - diễn thường ngẫu hứng và đem lại cho người xem những tiếng cười sảng khoái. Trò múa Xuân Phả có một đặc điểm: Hầu hết nhân vật trong các trò đều phải đeo mặt nạ, tạo cảm giác lạ, ngộ nghĩnh. Và cũng hầu hết trong các trò đều do diễn viên nam đảm nhiệm, còn nếu có diễn viên nữ tham gia thì chỉ ở các vai tiên, phỗng.
Nói chung, múa Xuân Phả vui, mạnh và không kém phần trữ tình. Múa Xuân Phả phải sử dụng nhiều đạo cụ và mỗi đạo cụ có một hình tượng riêng. Những động tác khi múa, lúc uyển chuyển nhịp nhàng, khi lại mạnh mẽ, tạo nên những cao trào, đem đến cho khán giả một khoái cảm thẩm mỹ kỳ lạ. Trong mỗi điệu múa của trò múa Xuân Phả đều có nét độc đáo riêng mà ở các điệu múa khác của người Kinh không có.
Múa Xuân Phả đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khi xưa, Nguyễn Trãi đã dựa theo trò múa Xuân Phả để sáng tác múa Chư hầu lai triều cho Vua Lê Nhân Tông. Ngày nay, nhiều nhà biên đạo múa cũng dựa vào tinh hoa ở trò múa này để sáng tạo nên các tiết mục múa. Trò múa Xuân Phả từng được chọn là đại diện cho văn hoá xứ Thanh phô diễn ở các sự kiện như "Chào Thiên niên kỷ mới" (năm 2000), Festival Huế 2004... luôn được khán giả hâm mộ.
Trò múa Xuân Phả thường thể hiện những khát khao vươn lên của con người, như một đỉnh cao của múa dân gian đất Việt. Xem múa Xuân Phả, người ta dễ cảm nhận được vẻ đẹp lung linh của một viên ngọc quý. Có một điều đáng mừng là, làng Xuân Phả hiện nay vẫn duy trì được đội trò trẻ tuổi, thường trình diễn tại các lễ hội và đoạt nhiều giải thưởng qua các hội diễn nghệ thuật quần chúng. Trên sân khấu chuyên nghiệp, tinh hoa trò múa Xuân Phả cũng đã đem về không ít huy chương vàng, bạc. Và trên hết, vẻ đẹp của trò múa Xuân Phả đem lại niềm tự hào cho người dân xứ Thanh và xứng danh là ngọc quý trong kho tàng múa dân gian Việt Nam.
Từ bản Tả Phìn đến thị trấn Sa Pa (Lào Cai) là đoạn đường đèo ngoạn mục với cảnh quan diễm lệ. Những thửa ruộng bậc thang xanh xanh với nào lúa nước, su su chạy dài ngút mắt bên dưới lũng sâu.
ừ thị trấn Kiên Lương (Kiên Giang) đi Mo So có một đoạn đường đầu tiên ở nước ta được đổ bê tông xi măng thay vì trải nhựa như thường thấy; rồi thích thú chứng kiến những ngọn núi đá vôi chập chùng chạy ngược bên khung cửa xe. Theo con đường nhựa nổi lên giữa những đồng nước chua phèn lưa thưa cây cỏ vàng hoe màu nắng, Mo So rồi cũng hiện ra trước mắt.
Ở trung tâm thành phố Cần Thơ có những ngôi chùa cổ ra đời hàng trăm năm trước, không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng mà còn chữa bệnh cứu người, tế độ chúng sinh. Hãy cùng chúng tôi ghé thăm chùa Hiệu Minh (Đàn Tiên Cái Khế) - một ngôi chùa như vậy.
Những ngày này, khi lúa, ngô đã “nằm yên” trong nhà, cũng là lúc đồng bào dân tộc thiểu số Chơro ở Đồng Nai tổ chức lễ hội Sayangva (ăn thần lúa).
Cây tre đã gắn bó với người Việt hàng ngàn đời nay. Tre là nguyên liệu được người Việt khai thác tối đa sự hữu dụng tưởng như vô hạn; từ những vật dụng gần gũi, thiết thân trong đời sống thường nhật cho đến khí cụ chiến đấu, bảo vệ quê hương. Hình ảnh lũy tre thanh bình, thơ mộng trong thi ca, trong bao chuyện tình lãng mạn và cả trong huyền sử Thánh Gióng.
Hội mùa là ngày hội lớn, có từ lâu, rất phổ biến ở Tây Nguyên, tương tự như ngày Tết của đồng bào Kinh. Hội mùa được người Gia Rai gọi là Pơtrưm, người Ba Na gọi là Samok, thường tổ chức vào tháng 12 dương lịch.
Lễ cưới của người Dao ngày nay đã được đơn giản hóa và trai gái cũng không kết hôn quá sớm. Còn trước đây, khi các cậu trai, cô gái dân tộc Dao đến tuổi 12-13, cha mẹ họ đã lo tìm vợ, gả chồng. Nếu bố mẹ chàng trai thấy vừa mắt một cô gái nào đó thì ngay lập tức chuẩn bị lễ vật sang xin dâu.
Đối với nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong hệ thống lễ nghi vòng đời người, lễ cưới là lễ hội quan trọng nhất. Nếu lễ cưới của người Kinh thường diễn ra vào mùa đông thì lễ cưới của các dân tộc thiểu số được chọn vào lúc thu hoạch xong mùa múa rẫy. Mùa ấy cũng đồng thời diễn ra nhiều lễ hội khác như lễ mừng mùa, lễ chúc phúc, lễ tạ ơn thần linh... cho nên người ta gọi là mùa “ăn năm uống tháng”.
Nói tới Tây Bắc, người ta hay dùng đến hai chữ "khám phá". Những câu chuyện kỳ thú về cách ăn nếp ở của những con người trên những vùng cao nguyên cực Bắc tổ quốc, nơi cư ngụ của rất nhiều dân tộc anh em, như vẫn còn chờ các vị khách miền xuôi khám phá. Một vài câu chuyện cóp nhặt trên đường…
Người Dao Tiền Bắc Kạn sống rải rác ở các huyện Ba Bể, Ngân Sơn… là dân tộc có nền văn hoá đặc sắc riêng biệt Trang phục của người Dao Tiền cầu kì, tinh tế nhưng phù hợp với tập quán và tập quán lao động sản xuất của mình. Khác với người Dao đỏ hoạ tiết trong trang phục chủ yếu là màu đỏ thì người Dao Tiền Bắc Kạn màu sắc chủ đạo trong trang phục là màu chàm và màu trắng rất tinh tế nhưng nhã nhặn, hài hoà.
Truyền thuyết dân gian của người Việt và người Chăm đều cho rằng cá voi (cá Ông) không phải là một loài cá bình thường mà là một loại cá thần. Biểu hiện ở đây không phải là do có sức vóc to lớn và sức chịu đựng khác thường, mà là loài cá có suy nghĩ, có tình cảm, đặc biệt là sự cảm nhận về tâm linh như con người. Không phải ngày xưa mà ngay cả bây giờ nhiều người vẫn nghĩ thế.
Người Êđê tuy có gần 30 nhóm địa phương khác nhau,nhưng đều chung một hình thức trang phục. Về hình thức, y phục và cách làm dáng của đồng bào Êđê mang những nét chung của nhiều dân cư ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên. Nữ mặc váy dài và áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố và mang áo cánh dài quá mông. Nam nữ đều thích dùng nhiều trang sức bằng vòng bạc, vòng đồng.
Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời sống, phong tục, lễ hội của người Việt Nam từ cổ xưa đến nay. Văn hóa vùng sông, biển với những tục lệ lâu đời đã thành phong tục đặc sắc là vốn quý trong kho tàng văn hóa dân gian bản địa cổ truyền.Thuyền rồng để vua dùng gọi là "thuyền ngự".
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”