Nợ công của các quốc gia hiện nay đang là vấn đề bàn thảo và tranh luận của nhiều nhà kinh tế cũng như tốn khá nhiều “ giấy mực “ của giới báo chí. Để giúp các nhà đầu tư có cái nhìn đa chiều và hiểu rõ hơn về vấn đề nợ công, Ông Nguyễn Hồng Hải – Nguyên Phó TGĐ Oceanbank xin chia sẻ với nhà đầu tư quan điểm và nhìn nhận về vấn đề nợ công thời điểm hiện nay.
Nợ công theo luật quản lý nợ công của Việt Nam thì bao gồm: nợ chính phủ; nợ được chính phủ bảo lãnh; nợ chính quyền địa phương.
Một trong những vấn đề đặt ra là nợ công như thế nào đươc gọi là an toàn ?
Nếu chỉ xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ công tính trên GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng thực chất vấn đề.
Chúng ta có thể theo dõi tình hình nợ công và Tỷ lệ nợ công/GDP qua bảng số liệu
| STT | Tên quốc gia | Nợ công | Tỷ lệ nợ công/GDP |
| 1 | Mỹ | 7.581.480.000.000 USD | 53.7 % |
| 2 | Nhật | 9.613.320.000.000 USD | 191.9 % |
| 3 | Tây ban Nha | 887.312.000.000 USD | 62.1 % |
| 4 | Đức | 2.507.240.000.000 USD | 79.6 % |
| 5 | Hy Lạp | 362.838.000.000 USD | 99.6 % |
| 6 | Việt Nam | 49.302.700.000 USD | 51.7 % |
Qua bảng số liệu trên sẽ thấy Mỹ và Đức có nợ công khá lớn, còn nếu nhìn vào tỷ lệ nợ công tính trên GDP thì Nhật bản là nước có tỷ lệ cao nhất. Tuy nhiên, tại sao các tổ chức và chính phủ các nước không lo ngại nợ công tại Đức mà lại rất lo ngại nợ công tại Hy Lạp và Tây ban Nha.
Vậy khi chúng ta đánh giá nợ công thế nào là an toàn thì cần dựa vào yếu tố nào?
Khi nhìn vào Bảng cân đối tài khoản của một quốc gia thì chúng ta phải nhìn cả 2 vế: cả Tài sản lẫn Nguồn vốn.
Cũng giống như một doanh nghiệp khi họ dùng tiền đi vay để kinh doanh, nếu họ vay 100 đồng và tài sản của họ sau khi vay nợ để kinh doanh lên tới 200 đồng, doanh nghiệp đó có khả năng trả nợ lãi và nợ gốc thường xuyên cho người cho vay thì chúng ta thấy họ là đối tượng đáng tin hơn là một doanh nghiệp chỉ vay 10 đồng để kinh doanh và họ không có tài sản gì để trả nợ chúng ta.
Nợ công của một quốc gia cũng vậy. Việc nợ công cao cũng như tỷ lệ nợ công trên GPD cao chưa phải là đáng lo ngại mà điều chúng ta cần quan tâm là nợ công đó được đầu tư như thế nào, khả năng trả nợ của chính phủ đó ra sao ? Nếu số tiền đó được đầu tư hiệu quả thì càng cần phải khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai.
Theo bảng thống kê trên thì nợ công và tỷ lệ nợ công tính trên GDP của Việt Nam không phải là cao. Nếu nói về khả năng trả nợ thì hàng năm Việt nam chỉ phải trả nợ nước ngoài cả gốc lẫn lãi khoảng 1 tỷ USD, đây là số tiền không lớn để chúng ta trả nợ nước ngoài ( chỉ tính riêng việc chúng ta xuất khẩu dầu thô đủ khả năng để trả nợ gốc và lãi nợ nước ngoài hàng năm ). Các món vay nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là vay nợ dài hạn.
Như vậy, khi chúng ta quan tâm tới nợ công của một quốc gia thì điều chúng ta quan tâm không chỉ số tuyệt đối của nợ công, tỷ lệ nợ công tính trên GDP mà điều cần quan tâm nhất là số nợ công đó được chi tiêu như thế nào, nó có thực sự đem lại hiệu quả và khả năng trả nợ gốc, lãi của quốc gia đó với khoản nợ công trong tương lai.
(ATPVietnam)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com