Một bên là người gửi tiền không am hiểu quan hệ tín dụng, không hiểu hoạt động của ngành ngân hàng, lại được khuyến khích bởi lợi ích trước mắt, lãi suất cao và một bên là nhu cầu vốn lớn nên hình thành thị trường vốn “chợ đen” rất nguy hiểm.
Đó cũng là ý kiến của ông Lê Xuân Nghĩa, khi trao đổi với PV về tình trạng vỡ nợ liên tiếp xảy ra gần đây.
Theo ông Nghĩa, việc liên tiếp xảy ra vỡ nợ với con số hàng trăm tỷ đồng vì vài năm gần đây các doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng. Gần đây, không chỉ doanh nghiệp bất động sản, mà cả doanh nghiệp sản xuất bình thường, thậm chí ngành dệt may cũng vay tiền “chợ đen” để trả lương cho công nhân vì họ không thể tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng phải có tài sản đảm bảo, trong khi phần lớn tài sản đó không còn, họ đành huy động vốn “chợ đen” trả lương cho công nhân, điều đó chứng tỏ sản xuất kinh doanh đang bị đình trệ ghê gớm.
“Theo tôi, việc liên tiếp xảy ra vỡ nợ xuất hiện một mặt từ việc khan hiếm vốn của ngân hàng, mặt khác là lãi suất quá cao và nhu cầu vốn từ những lĩnh vực kinh doanh thông thường đã “khuyến khích” thị trường vốn tín dụng “đen” phát triển. Thêm vào đó, một bên là người gửi tiền không am hiểu quan hệ tín dụng, không am hiểu hoạt động của ngành ngân hàng, lại được khuyến khích bởi lợi ích trước mắt, lãi suất cao và một bên là nhu cầu vốn lớn nên hình thành thị trường vốn “chợ đen” rất nguy hiểm”, ông Nghĩa nhận định.
Trả lời câu hỏi, vì sao các vụ vỡ tín dụng đen lại cùng xuất hiện trong thời điểm này, mà không phải trước đó? Ông Nghĩa cho rằng, thật ra, bắt đầu từ nằm 2011, việc thắt chặt tín dụng mới quyết liệt và kéo dài. Hơn nữa, các nguồn lực tự có của các doanh nghiệp cũng cạn kiệt dần so với những năm 2008, 2009 nên việc vỡ nợ tín dụng “đen” bùng nổ vào thời điểm này là đương nhiên.
Cũng theo ông Nghĩa, các vụ vỡ nợ vừa qua chứng tỏ vốn trong dân vẫn còn rất lớn. Trong khi đó, nguồn vốn này lại không được gửi ngân hàng, tín dụng hoặc đầu tư vào những kênh khác mà độ rủi ro thấp hơn. Đó được coi là một trong những nhược điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam, họ không tiếp cận được nguồn tiền để dành trong dân. Hiện, tỷ lệ dân chúng để dành tiền vào ngân hàng rất thấp so với thế giới. Ở các nước, tỷ lệ này có thể lên tới 80 - 90%, trong khi ở Việt Nam chỉ đạt khoảng 40%. Đây cũng là nhiệm vụ để ngành ngân hàng trong việc quảng bá, tạo ra một kênh huy động vốn rộng rãi hơn, dễ dàng hơn cho dân chúng, kể cả khi gửi và khi rút với mức lãi suất hợp lý.
Việc để xảy ra các vụ vỡ nợ như vậy, ngoài sự nhẹ dạ cả tin của người cho vay, theo ông Nghĩa còn một nguyên nhân khác: đó là lỗi rất lớn của hệ thống. “Cái này được Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JAICA) khảo sát từ lâu và khẳng định tỷ lệ để dành vào ngân hàng của dân cư Việt Nam rất thấp so với nhiều nước, tỷ lệ dân chúng có tài khoản mở tại ngân hàng cũng thấp. Ở các nước, dường như ai cũng có tài khoản ngân hàng, do vậy, tiền nhàn rỗi đều nằm ở ngân hàng. Ở nước ta thì phần lớn dân chúng có thu nhập thấp, thậm chí cả những công chức, viên chức mấy ai có tài khoản tại ngân hàng, chỉ có tài khoản để nhận lương hàng tháng và khi có lương cũng đều rút hết”, ông Nghĩa nói.
- Có người phỏng đoán số vàng và USD trong dân là rất lớn (500 tấn vàng và hàng trăm tỷ USD). Theo ông, cần làm gì để nhà nước thu hút được nguồn nội lực này để phát triển?
Điều đó phụ thuộc hai vấn đề. Thứ nhất, về phía dân chúng, một mặt là do lòng tin vào hệ thống tiền đồng Việt Nam và vào hệ thống ngân hàng nói riêng rất yếu, họ không tin rằng tiền gửi vào ngân hàng sẽ hiệu quả và chắc chắn. Cộng với chuyện hệ thống buôn bán, đầu cơ, kinh tế “ngầm” rất mạnh đã tạo ra những rủi ro về tiền gửi rất lớn. Thứ hai là sự phát triển của hệ thống ngân hàng còn nhiều hạn chế. Tức là chi nhánh ngân hàng chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, trong khi vàng và tiền mặt có khá nhiều ở nông thôn. Bên cạnh đó, thủ tục gửi, vay và thanh toán còn phức tạp. Đó là khiếm khuyết của ngành ngân hàng, nhưng đó cũng là tiềm năng phát triển của ngành ngân hàng, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Phải làm cho người dân hiểu rằng gửi tiền vào ngân hàng sẽ mang lại hiệu quả nhất, thủ tục thanh toán rất dễ dàng.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Hàng loạt vụ lừa đảo thông qua huy động vốn với lãi suất cao đỗ vỡ. Những đổ vỡ này đã cho thấy những cảnh báo liên quan đến ngân hàng cũng như bất ổn đối với các thị trường tài chính, chứng khoán, bất động sản.
Tín dụng “đen” không phải là chuyện mới ở Việt Nam. Vỡ nợ cũng là những bài học cũ. Tuy nhiên, trong khoảng một tháng nay, liên tiếp các vụ đổ vỡ tín dụng cá nhân đã diễn ra - tập trung nhiều ở thị trường phía Bắc, nhỏ nhất cũng vài trăm tỉ đồng, lớn thì lên đến hàng ngàn tỉ đồng.
The Economist cho rằng các nước giàu sẽ đối mặt với kịch bản thứ ba: đình trệ kinh tế kiểu Nhật. Suy thoái có thể xảy ra thường xuyên hơn so với thập niên 1980 và 1990, và tỉ lệ tăng trưởng chung sẽ ì ạch. Một kết quả như vậy sẽ khiến cho các nước đã phát triển rất khó xử lý nợ công của họ; sẽ có thêm nhiều nước rơi vào bẫy nợ kiểu Nhật.
Tín dụng “đen” không phải là chuyện mới ở Việt Nam. Vỡ nợ cũng là những bài học cũ. Tuy nhiên, trong khoảng một tháng nay, liên tiếp các vụ đổ vỡ tín dụng cá nhân đã diễn ra - tập trung nhiều ở thị trường phía Bắc, nhỏ nhất cũng vài trăm tỉ đồng, lớn thì lên đến hàng ngàn tỉ đồng.
Trong thời gian qua, các ngân hàng đô thị hầu như có cùng chung hoạt động ngân hàng bán lẻ, không chuyên biệt lĩnh vực nào rõ rệt nên hoạt động của họ cạnh tranh nhau quyết liệt mà không hề có sự bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Hệ quả từ những tác động từ chính sách và bán vàng bình ổn là vấn đề thanh khoản – một tâm điểm chú ý của giới phân tích và kinh doanh vàng. Nếu thanh khoản vàng giảm đều qua các tuần thì có thể xem đó là biểu hiện của tình trạng suy thoái, không chỉ về giá mà còn cả về độ hấp dẫn của kênh đầu tư vàng.
Chia sẻ với ĐTCK, tổng giám đốc một NHTM cho biết, cuối buổi sáng ngày 18/10 (hôm qua), nhân viên báo cho ông biết ngân hàng được chào vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất là 40%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Cũng tương tự, phó tổng giám đốc một ngân hàng cũng chia sẻ, ngân hàng ông cũng được chào với mức lãi suất tương tự nhưng theo ông, giao dịch thực thì lãi suất không cao đến vậy.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.