Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Khó hạ lãi suất vì yêu cầu trích dự phòng quá cao?

picture
VNBA đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho giảm tỷ lệ dự phòng chung từ 0,75% xuống 0,5%, đồng thời cho phép kéo dài thời gian các tổ chức tín dụng phải thực hiện trích lập dự phòng chung đến thời gian phù hợp hơn để các ngân hàng có điều kiện giảm lãi suất cho vay - Ảnh: Reuters.

Các ngân hàng thương mại khó đảm bảo hiệu quả kinh doanh và giảm lãi suất cho vay khi yêu cầu tỷ lệ trích lập dự phòng hiện nay quá cao.

Đây là nhận định của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) trong văn bản gửi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước mới đây, bên cạnh những phản hồi và đề xuất về những nội dung của Thông tư số 13.

Cụ thể, VNBA cho rằng Ngân hàng Nhà nước cần xem xét lại và điều chỉnh một số quy định đặt ra trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, ban hành đã cách đây 5 năm.

Điều 9 của Quyết định 493 (về tỷ lệ dự phòng chung) có quy định:

“1. Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.

2. Trong thời hạn tối đa năm (05) năm kể từ ngày Quy định này có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng phải thực hiện trích lập đầy đủ số tiền dự phòng chung theo quy định tại Khoản 1, Điều này”.

Với những quy định trên, Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay, tỷ lệ trích lập dự phòng chung 0,75% trên là quá cao. Vì hiện nay, chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại rất thấp, khoảng 2%, thậm chí có ngân hàng thương mại mức chênh lệch này còn 1,5% - 1,8%.

“Việc các ngân hàng thương mại còn phải trích lập dự phòng chung theo quy định là 0,75% trên dư nợ cho vay từ nhóm 1 đến nhóm 4 sẽ rất khó cho các ngân hàng đảm bảo hiệu quả kinh doanh và thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về việc giảm lãi suất cho vay”, VNBA lập luận.

Và kiến nghị mà đầu mối này đưa ra trong văn bản gửi Thống đốc là “đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho giảm tỷ lệ dự phòng chung từ 0,75% quy định tại Quyết định 493 xuống còn 0,5%, đồng thời cho phép kéo dài thời gian các tổ chức tín dụng phải thực hiện trích lập dự phòng chung đến thời gian phù hợp hơn để các ngân hàng có điều kiện giảm lãi suất cho vay”.

Cũng trong Quyết định 493, Điều 19, Khoản 2 quy định: “Các ngân hàng thương mại nhà nước đánh giá tình hình trích lập dự phòng cụ thể và khả năng trích lập dự phòng chung báo cáo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính xem xét quyết định trên cơ sở từng trường hợp cụ thể nhưng tối đa không quá năm (05) năm, các ngân hàng thương mại nhà nước phải trích lập đầy đủ dự phòng theo Quy định này”.

VNBA cho biết, căn cứ theo quy định trên, đến hết năm nay (năm 2010), các ngân hàng thương mại nhà nước phải thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ theo Điều 6 và Điều 7 của Quyết định 493.

“Theo một số ngân hàng thương mại, nếu áp dụng phân loại nợ mới theo Điều 7 của Quyết định 493 thì tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng lên rất lớn, do đó số tiền phải trích lập dự phòng rủi ro cao hơn.

Trong điều kiện kinh tế bình thường, việc phân loại nợ theo Điều 7 là cần thiết để quản trị tín dụng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện các ngân hàng thương mại hiện nay đang phải cùng một lúc chuẩn bị kế hoạch tăng vốn, thực hiện các tiêu chí an toàn vốn theo Thông tư 13 mà phải thực hiện phân loại nợ theo Điều 7 sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng”, văn bản của VNBA viết.

Với những lập luận trên, đầu mối đại diện cho các ngân hàng thương mại đưa ra đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho kéo dài thời gian thực hiện cách phân loại nợ mới theo Điều 7 Quyết định 493 thêm một thời gian nữa.

* Theo “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng” (ban hành theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN), việc phân loại nợ của các tổ chức tín dụng thực hiện theo các nhóm từ 1 đến 5, theo các mức độ từ “Nợ đủ tiêu chuẩn”, “Nợ cần chú ý”, “Nợ dưới tiêu chuẩn”, “Nợ nghi ngờ” và “Nợ có khả năng mất vốn”; các nhóm này ứng với các tiêu chí về thời gian quá hạn của khoản nợ và mức độ yêu cầu tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.

(Theo Vneconomy)

  • Khi khách hàng tốt... không chịu vay
  • Nóng tỷ giá “chợ đen”, khi nào can thiệp?
  • Đường đi mới của tỉ giá và lãi suất
  • Căng thẳng tỷ giá chỉ mang tính nhất thời
  • Chính sách tiền tệ: Món ngon khó nấu!
  • Mây đen bao phủ tương lai của đồng EUR
  • Tỷ giá ngoại tệ Vietcombank 13/8/2010
  • EUR có thể tăng giá trở lại
  • Đồng nhân dân tệ giảm giá sâu
  • Dân tăng cường mua USD khi giá lên
  • JPY giảm mạnh trở lại so với USD
  • Tháo nút thắt tín dụng VNĐ
  • Lãi suất thả nổi online
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!