Trong 8 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu túi xách, ví, va li, mũ, ô dù của Việt Nam sang EU tăng 36,8% so với năm 2007, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt cao nhất với 161,57 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Các nước EU có kim ngạch nhập khẩu đạt mức cao nhóm hàng này từ Việt Nam là Bỉ với trên 40,58 triệu USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái, Đức đạt 34,58 triệu USD, tăng 29,7%, Pháp đạt 28,3 triệu USD, tăng 70,9%, Tây Ban Nha đạt 13 triệu USD, tăng 72,4%… Nhìn chung, xuất khẩu nhóm hàng túi xách, ví, va li, mũ, ô dù của Việt Nam sang các thị trường EU đều đạt tốc độ tăng trưởng cao trừ Italia và CH Ailen đang bị sụt giảm. Đây là một trong những nhóm hàng xuất khẩu duy trì được tốc độ tăng trưởng tốt dù nền kinh tế thế giới đang gặp khó khăn, do đó tiềm năng phát triển của nhóm hàng này của Việt Nam là rất lớn.
Trong năm 2006, các nước EU chi tiêu khoảng 10,07 tỉ euro cho các sản phẩm túi, va li và phụ kiện. Từ năm 2002 đến nay, tiêu dùng túi, va li và phụ kiện trong EU tăng khoảng 3,2% mỗi năm. Với dân số 476 triệu người, tiêu dùng các sản phẩm này bình quân theo đầu người của EU là 20,3 euro/năm. Trong đó Đức, Italia, Pháp, Anh và Tây Ban Nha là những nước tiêu dùng lớn nhất, chiếm 74% tổng mức tiêu dùng nhóm hàng này ở EU.
Trước đây, các sản phẩm túi da rất được ưa chuộng ở EU, tuy nhiên vài năm trở lại đây, những sản phẩm nhập khẩu có giá rẻ sử dụng nguyên liệu đa dạng như nylon, PVC, vải sợi có thị phần ngày càng tăng và đang dần chiếm thị phần lớn trong EU. Trong tương lai, thị trường túi, va li và phụ kiện thời trang sẽ rất đa dạng và phong phú. Trong khi ở Đông Âu ngày càng có nhiều người có thu nhập trung bình và cao thì ở nhiều nước Tây Âu, do nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, thêm vào đó giá cả trên thế giới có nhiều biến động, các hàng hoá cơ bản trong đó có cả dầu mỏ tăng cao đã làm hạn chế chi tiêu của người dân. Do đó, những sản phẩm có giá cả hợp lý, mẫu mã phong phù sẽ được lựa chọn nhiều hơn. Đây sẽ là những sản phẩm chủ đạo trên thị trường túi, va li và phụ kiện ở EU.
Sản xuất: các nước EU, đặc biệt là Tây Ban Nha, Italia và Pháp, có thế mạnh trong việc sản xuất các dòng túi, va li và phụ kiện cao cấp. Kể từ những năm 1980, rất nhiều hãng sản xuất nổi tiếng tại những quốc gia trên đã mở rộng sản xuất sang thị trường Đông Âu và châu Á. Italia là nước sản xuất túi, va li và phụ kiện lớn nhất ở EU với giá trị sản xaúat khoảng 2,213 tỉ euro trong năm 2006, chiếm hơn một nửa tổng mức sản xuất của cả EU. Sản phẩm của Italia chủ yếu là các sản phẩm cao cấp, thời trang và có giá rất cao.
Pháp là nước sản xuất lớn thứ hai trong EU, có giá trị sản xuất bằng một nửa của Italia và cũng chủ yếu tập trung vào dòng sản phẩm cao cấp. Sản xuất của hai quốc gia này chiếm đến 75% tổng mức sản xuất nhóm hàng này của toàn EU. Ngoài ra, Tây Ban Nha, Anh, Đức cũng là những nước sản xuất chính nhưng lượng sản phẩm của các nước này đang giảm mạnh trong thời gian gần đây.
Nhập khẩu: EU là một trong những thị trường nhập khẩu các sản phẩm túi, va li và phụ kiện lớn nhất trên thế giới. Nhập khẩu của EU trong năm 2006 có giá trị là 8,17 tỉ euro, với khoảng 899.000 tấn sản phẩm, có tốc độ tăng bình quân hàng năm là 9,9% về kim ngạch và 8,9% về số lượng. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nước sản xuất túi, va li và phụ kiện lớn nhất trên thế giới, chiếm khoảng 20% tổng lượng sản phẩm của toàn thế giới. Trung Quốc xuất khẩu khoảng 3,413 tỉ euro năm 2006. Ấn Độ hiện cũng đang là nước có tốc độ xuất khẩu túi, va li và phụ kiện vào EU tăng khá mạnh, với kim ngạch xuất khẩu vào EU đạt 340 triệu euro trong năm 2006. Xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam vào EU trong những năm gần đây chiếm một tỉ lệ nhỏ, khoảng 2% thị phần nhập khẩu nhóm hàng này của EU.
Túi: Túi hiện đang là mặt hàng có tỉ lệ lớn nhất trong nhóm hàng này, chiếm 61% giá trị nhập khẩu các nhóm hàng túi, va li và phụ kiện của EU. Các sản phẩm túi xách bằng da sản xuất tại EU hiện đã có sự sụt giảm mạnh.
Kim ngạch nhập khẩu túi giữa các nước EU chiếm khoảng 14%, Italia là nước cung cấp lớn nhất trong EU với kim ngạch đạt 488 triệu euro vào năm 2006. Trong nhóm nước đang phát triển, Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn thứ nhất sang EU, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 2,1 tỉ USD trong năm 2006, tăng 11%, chiếm 42,2% tổng thị phần nhập khẩu túi của EU. Ấn Độ là nước xuất khẩu túi sang EU có tốc độ tăng trưởng lớn nhất trong những năm gần đây với mức tăng hàng năm là 13%, từ 117 triệu euro năm 2002 tăng lên 188 triệu euro vào năm 2006, chiếm 3,8% thị phần. Số lượng túi nhập khẩu từ Việt Nam vào EU trong những năm gần đây tương đối ổn định, chiếm 2,1% thị phần nhập khẩu túi của EU, trong khi số lượng túi cung cấp từ Indonesia và Thái Lan đang có xu hướng giảm.
Va li: nhóm hàng này bao gồm va li đựng quần áo, va li đựng tài liệu và các loại cặp dành cho học sinh, sinh viên. Đây là nhóm hàng có giá trị nhập khẩu nhỏ nhất của EU. Hiện nay, tốc độ nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng tương đối nhanh, đạt 6,2%/năm trong giai đoạn 2002-2006. Mặt hàng va li da chiếm 13% kim ngạch xuất khẩu của toàn nhóm, đạt 212 triệu euro (tương đương 15.000 tấn).
Sản phẩm va li nhập khẩu từ các nước đang phát triển đạt 261.000 tấn. Trong đó, sản phẩm va li nhập khẩu từ Trung Quốc có kim ngạch cao nhất, đạt 823 triệu euro trong năm 2006, chiếm 51,4% tổng thị phần va li nhập khẩu của toàn EU, tăng 9,3% so với năm 2005. Vai li nhập khẩu từ Việt Nam tăng trung bình hàng năm là 6,8% về giá trị kim ngạch. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu va li từ Việt Nam đạt 39 triệu euro, tăng 9 triệu euro so với năm 2002 với số lượng là 5.800 tấn, chiếm 2,5% thị phần. Va li tay nhập khẩu từ Ấn Độ tăng 13% về giá trị và 19% về số lượng qua các năm, chiếm 1,4%. Thái Lan, Indonesia và Sri lanka có số lượng va li xuất khẩu sang EU ngày càng giảm, hiện chỉ còn chiếm khoảng 0,3% thị phần nhập khẩu va li của EU.
Phụ kiện thời trang: Đối với nhóm hàng phụ kiện, Trung Quốc cũng vẫn là nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường EU với tổng giá trị xuất khẩu là 494 triệu USD trong năm 2006, tăng 5,6% so với năm 2005, chiếm 30,7% thị phần nhập khẩu của EU. Ấn Độ xuất khẩu vào thị trường EU nhóm sản phẩm này có giá trị 128 triệu euro, chiếm 8,7% thị phần, Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu sang EU tăng 10% về giá trị và 3% về số lượng, chiếm 1,7% thị phần. Các sản phẩm phụ kiện được nhập khẩu từ Việt Nam hiện đang có xu hướng giảm, chỉ chiếm 0,3% thị phần trong năm 2006.
Các sản phẩm phụ kiện làm bằng da được nhập khẩu từ các nước đang phát triển đạt khoảng 261.000 tấn. Trung Quốc là quốc gia cung cấp lớn nhất các mặt hàng làm bằng da vào thị trường EU, chiếm 823 triệu euro trong năm 2006. Nhập khẩu từ Việt Nam tăng trung bình hàng năm là 6,8% về giá trị, từ 30 triệu euro năm 2002 đến 39 triệu euro năm 2006 và tăng 6% về số lượng, với 4.600 tấn năm 2002 tăng lên đến 5.800 tấn năm 2006. Trong giai đoạn 2002-2006, nguồn cung các sản phẩm phụ kiện từ Ấn Độ tăng 13% về giá trị và 19% về số lượng.
Hiện nay, nhập khẩu túi, va li và phụ kiện vào EU đang có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng tiêu dùng của thị trường. Trong thời gian tới, nhập khẩu nhóm hàng này từ các nước đang phát triển dự kiến có cơ hội rất lớn khi quy mô sản xuất của các nước trong EU đang giảm dần và mức tiêu thụ vẫn tăng trưởng ổn định.
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Thương vụ Việt Nam giới thiệu về các rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Ma-rốc.
Theo Thương vụ Việt nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là một trong những nước có ngành công nghiệp dệt may giữ vai trò hàng đầu.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là nước nhập khẩu đứng đầu thế giới về chè xanh với lượng tiêu thụ mỗi năm 30.000 tấn. Dự kiến đến năm 2010, Maroc sẽ nhập khẩu 57.100 tấn, tăng 4,5% mỗi năm.
Trrước khi bắt đầu đàm phán vòng thứ 6 Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa EU và ASEAN, trưởng đoàn đàm phán EU Philippe Meyer cho biết nếu có FTA, VN sẽ có nhiều lựa chọn hơn cho hàng hóa xuất khẩu và giúp VN kiểm soát giá cả tốt hơn.
Đối với ngành thủy sản Việt Nam, bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ, EU... thì thị trường Hồi giáo được xem là “kênh” tiềm năng giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường. Khi xuất sang thị trường này, các doanh nghiệp cần lưu ý quá trình xét chứng nhận HALAL(Giấy thông hành HALAL vào thị trường Hồi giáo).
Ma-rốc đã có những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực mở cửa thương mại. Về mặt hải quan, điều này được thể hiện nhiều nhất qua việc gia nhập Tổ chức Hải quan thế giới (1968), rồi các công ước quan trọng nhất do Tổ chức này soạn thảo (Công ước về hệ thống hài hoà hoá thuế quan, Công ước Kyoto về đơn giản hoá và hài hoà các chế độ hải quan, Công ước về tạm nhập, vv). Việc mở cửa của Ma-rốc còn được thể hiện thông qua việc gia nhập GATT (1987), rồi WTO (1994) cũng như bằng việc thông qua luật ngoại thương (1989) về trao quyền tự do xuất nhập khẩu. Cuối cùng, nước này cũng ký kết nhiều hiệp định tự do mậu dịch trong đó có Hiệp định hợp tác với Liên minh châu Âu.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, đồng diham của Ma-rốc không thể mang ra khỏi đất nước cũng không tự do chuyển đổi được. Tuy nhiên, Ma-rốc áp dụng khả năng chuyển đổi tiền trong các hoạt động thông thường.
Kể từ khi giành độc lập năm 1957, Marốc đã chú trọng triển khai những dự án đầu tư quan trọng nhằm phát triển và trang bị cho đất nước những cơ sở hạ tầng công nghiệp cơ bản. Cho đến nay lĩnh vực công nghiệp chiếm gần 28% GDP của Maroc. Đã từ lâu, các ngành công nghiệp chế biến nông sản, dệt may và da thuộc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....