Kể từ khi giành độc lập năm 1957, Marốc đã chú trọng triển khai những dự án đầu tư quan trọng nhằm phát triển và trang bị cho đất nước những cơ sở hạ tầng công nghiệp cơ bản. Cho đến nay lĩnh vực công nghiệp chiếm gần 28% GDP của Maroc. Đã từ lâu, các ngành công nghiệp chế biến nông sản, dệt may và da thuộc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Hiện nay, với chính sách mở cửa và đa dạng hoá, nhiều ngành công nghiệp khác được đầu tư phát triển mạnh như công nghiệp hoá chất và hoá mỹ phẩm, giấy, trang thiết bị ôtô và lắp ráp xe hơi, tin học, điện tử, công nghiệp hàng không và các ngành dịch vụ hỗ trợ khác.
Định hướng chiến lược phát triển công nghiệp của Marốc
Mục tiêu của chương trình này là xác định những lĩnh vực chìa khoá, động lực tăng trưởng xuất khẩu (mà Marốc gọi là « Những ngành nghề thế giới») và đưa ra một chính sách công nghiệp dựa trên ý chí của Chính phủ hướng tới những động lực này, đồng thời cải thiện tính cạnh tranh của toàn bộ mạng lưới công nghiệp hiện có.
Việc thực hiện chiến lược sẽ có những tác động đáng kể đến toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là đẩy mạnh tăng trưởng sao cho chiếm 1,6% GDP đóng góp thêm 91 tỷ điham vào GDP cả nước và tạo thêm khoảng 440.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp vào năm 2013. Mặt khác, chính sách này có thể giúp giảm trên 50% thâm hụt cán cân thương mại (tức là giảm 34 tỷ điham vào năm 2015).
Ý tưởng chủ đạo của chiến lược này dựa trên việc cần phải thiết lập một lộ trình rõ ràng cho nền kinh tế, xoay quanh 2 trục:
- Tập trung vào những động lực tăng trưởng : Đó là trong bối cảnh các nguồn tài nguyên về con người và tài chính còn hạn chế, cần tránh dàn trải các nguồn lực và phải tập trung vào những động lực tăng trưởng hướng tới xuất khẩu dự tính sẽ chiếm 70% tăng trưởng công nghiệp từ nay đến năm 2015 (« Những ngành nghề thế giới của Marốc »).
- Quản lý mạng lưới công nghiệp hiện có và giữ vững sự cân bằng : Trong bối cảnh toàn cầu hoá và mở cửa các hàng rào thuế quan, cần phải lành mạnh hoá và tăng cường mạng lưới kinh tế hiện nay bằng cách tiến hành hiện đại hoá toàn bộ hệ thống để năng cao sức cạnh tranh.
Chiến lược phát triển dựa trên 4 cột trụ chính sau đây :
a) Phát triển các ngành nghề mới để đón bắt sự dịch chuyển các hoạt động sản xuất và dịch vụ nước ngoài (Offshoring)
Marốc có những thế mạnh về ngôn ngữ (tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha) và chi phí nhân công rẻ (nhất là những lao động tốt nghiệp phổ thông trung học, đại học), biến nước này thành một điểm đến hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài thuộc khối tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha muốn dịch chuyển một phần các hoạt động dịch vụ và sản xuất sang những quốc gia có nguồn nhân công rẻ.
Cùng với xu hướng này, Marốc mong muốn thu hút được nhiều nhất các hoạt động đầu tư có giá trị gia tăng cao của các doanh nghiệp nước ngoài trong khối nước tiếng Pháp và Tây Ban Nha có vị trí địa lý gần gũi nhờ những thế mạnh bên trong và nguồn nhân công lành nghề có thể huy động trong thời gian ngắn nhất. Đến năm 2015, ước tính sẽ có thêm 15 tỷ DH đóng góp vào GDP và tạo thêm được 100.000 việc làm cho người Marốc.
b) Thành lập các khu gia công công nghiệp hướng tới xuất khẩu sang Châu Âu ( MED ZONES )
Trục phát triển thứ hai trong chiến lược Emergence dựa trên việc thành lập « MED ZONES » tức là các khu vực được thiết kế để đẩy nhanh việc phát triển hoạt động gia công công nghiệp tại Marốc hướng tới thị trường châu Âu.
Mục tiêu là cung cấp cho các nhà đầu tư/công nghiệp một khu vực cho phép họ hoạt động trong những điều kiện kinh tế và kỹ thuật tối ưu (những lợi thế riêng, cơ sở hạ tầng, đơn giản hoá thủ tục hành chính, hệ thống thuế ưu đãi, vv).
Mặc dù MED ZONES mở cho tất cả các thành phần trong mọi lĩnh vực, song Marốc chú trọng đến ba lĩnh vực mà nước này có nhiều tiềm năng nhất là công nghiệp ôtô, điện tử và hàng không.
Việc thực hiện chiến lược sẽ giúp ngành sản xuất ôtô đóng góp thêm 7,2 tỷ điham cho GDP và ngành điện tử 4,8 tỷ, đồng thời lần lượt tạo ra khoảng 43.000 và 11.000 việc làm vào năm 2015.
c) Hiện đại hoá và phục hồi các ngành công nghiệp sẵn có
Trục phát triển thứ ba trong chiến lược dựa vào việc hiện đại hoá và phục hồi 3 động lực tăng trưởng có từ trước, đó là :
+Ngành chế biến nông sản :
Dựa trên các lợi thế so sánh thực sự so với một nhóm nước khu vực đồng euro-đối thủ cạnh tranh hiện nay của Marốc và dựa trên việc phân tích những xu hướng của thị trường thế giới, Chương trình Emergence đã xác định 2 ngành có tiềm năng phát triển mạnh là chế biến rau quả và chất béo (dầu ôliu và dầu argan).
Nhìn chung, chiến lược cho 2 ngành này về ngắn hạn là nâng cao hơn nữa giá trị các nguồn tài nguyên nông nghiệp và về trung hạn là gia tăng và đa dạng các mặt hàng có khả năng xuất khẩu thông qua việc cơ cấu lại đầu vào của ngành nông nghiệp, thay thế những cây trồng không mang tính cạnh tranh bằng những cây trồng có giá trị gia tăng cao.
Việc thực hiện chiến lược đối với lĩnh vực này sẽ đóng góp thêm 5 tỷ điham vào GDP cả nước và tạo ra khoảng 12.000 việc làm mới vào năm 2015.
+Ngành công nghiệp chế biến hải sản :
Chế biến hải sản là một lĩnh vực tăng trưởng mạnh từ nhiều năm nay. Chiến lược này chủ trương tạo ra một trung tâm chế biến các sản phẩm đánh bắt mang tính khu vực tại vùng Agadir bằng cách đầu tư vào các cơ sở hạ tầng (cảng/dịch vụ và công nghiệp) và những kỹ năng sẵn có. Thành công của chiến lược này sẽ giúp tiếp cận dễ dàng hơn nguồn nguyên liệu đông lạnh nhập khẩu hoặc của Marốc (mà hiện nay ít được chế biến). Trung tâm này sẽ giúp tập hợp thành một mạng lưới đầy đủ các tác nhân quan trọng (người Marốc và nước ngoài) được hưởng những cơ sở hạ tầng và dịch vụ đi kèm (đóng gói, vận chuyển, thủ tục hành chính, nghiên cứu-phát triển, đào tạo v.v…) có quy mô quốc tế.
Những tiềm năng này một khi được khai thác sẽ mang lại cho GDP thêm 3 tỷ điham và tạo ra hơn 35.000 việc làm trực tiếp vào năm 2015.
+ Ngành dệt may :
Lĩnh vực này đang trong giai đoạn quá độ và ổn định lại vị trí do có những thay đổi lớn về cơ cấu gắn liền với việc toàn cầu hoá và đã có một chiến lược riêng.
d) Đẩy mạnh việc hiện đại hoá công nghiệp để nâng cao tính cạnh tranh
Trục phát triển thứ tư dựa trên việc đẩy nhanh hiện đại hoá mạng lưới công nghiệp hiện có sao cho có tính cạnh tranh hơn. Để thực hiện điều này, cần phải cải thiện môi trường kinh doanh (hành chính, thuế, vv), xây dựng những cơ chế cho phép chuyên nghiệp hoá việc quản lý tác nghiệp và tài chính tại các doanh nghiệp và cấu trúc lại mạng lưới hiện nay bằng cách tăng cường các lĩnh vực đang tăng trưởng, tạo điều kiện củng cố và lành mạnh hoá hệ thống công nghiệp đang gặp khó khăn.
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Trong 8 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu túi xách, ví, va li, mũ, ô dù của Việt Nam sang EU tăng 36,8% so với năm 2007, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt cao nhất với 161,57 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thương vụ Việt Nam giới thiệu về các rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Ma-rốc.
Theo Thương vụ Việt nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là một trong những nước có ngành công nghiệp dệt may giữ vai trò hàng đầu.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là nước nhập khẩu đứng đầu thế giới về chè xanh với lượng tiêu thụ mỗi năm 30.000 tấn. Dự kiến đến năm 2010, Maroc sẽ nhập khẩu 57.100 tấn, tăng 4,5% mỗi năm.
Trrước khi bắt đầu đàm phán vòng thứ 6 Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa EU và ASEAN, trưởng đoàn đàm phán EU Philippe Meyer cho biết nếu có FTA, VN sẽ có nhiều lựa chọn hơn cho hàng hóa xuất khẩu và giúp VN kiểm soát giá cả tốt hơn.
Đối với ngành thủy sản Việt Nam, bên cạnh các thị trường truyền thống như Mỹ, EU... thì thị trường Hồi giáo được xem là “kênh” tiềm năng giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường. Khi xuất sang thị trường này, các doanh nghiệp cần lưu ý quá trình xét chứng nhận HALAL(Giấy thông hành HALAL vào thị trường Hồi giáo).
Ma-rốc đã có những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực mở cửa thương mại. Về mặt hải quan, điều này được thể hiện nhiều nhất qua việc gia nhập Tổ chức Hải quan thế giới (1968), rồi các công ước quan trọng nhất do Tổ chức này soạn thảo (Công ước về hệ thống hài hoà hoá thuế quan, Công ước Kyoto về đơn giản hoá và hài hoà các chế độ hải quan, Công ước về tạm nhập, vv). Việc mở cửa của Ma-rốc còn được thể hiện thông qua việc gia nhập GATT (1987), rồi WTO (1994) cũng như bằng việc thông qua luật ngoại thương (1989) về trao quyền tự do xuất nhập khẩu. Cuối cùng, nước này cũng ký kết nhiều hiệp định tự do mậu dịch trong đó có Hiệp định hợp tác với Liên minh châu Âu.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, đồng diham của Ma-rốc không thể mang ra khỏi đất nước cũng không tự do chuyển đổi được. Tuy nhiên, Ma-rốc áp dụng khả năng chuyển đổi tiền trong các hoạt động thông thường.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....