1- Thặng dư ngân sách lớn , GDP liên tục tăng trưởng
Theo báo cáo của cơ quan Quản Lí Tài Chính Nhà Nuớc Kuwait cuối tháng 03/2008 thì năm tài chính 2007/2008 dự tính đạt lượng thặng dư ngân sách quốc gia khổng lồ : 9,55 tỷ KD tương đương với 35,335 tỷ USD . GDP của Ku Wait liên tục tăng truởng trong các năm 2005-2007: 85,7 tỷ USD /05;103,5 tỷ USD /06 ; 123 tỷ USD/ 07; dự báo 135 tỷ USD/08. Dự kíến tăng trưởng GDP năm 2008 đạt khoảng từ 8- 9,7% . Năm 2005- 2007 bình quân tăng GDP 14,5 % /năm ,chủ yếu do nguyên nhân giá dầu mỏ tăng cao mà Ku Wait là nuớc sản xuất, xuất khẩu dẩu mỏ lớn. Khu vực dầu mỏ của Ku Wait chiếm 56-59% GDP . Khu vực phi dầu mỏ chiếm 41-44%/GDP, trong đó hoạt động đầu từtài chính khoảng 26,4%/năm 2005 ,31,6%/ 2006. Đóng góp giá trị gia tăng cao nhất cho lĩnh vực phi dầu mỏ.
2- Tỷ lệ lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng nội địa Ku Wait giảm dần từ 4,1% năm 2005 xuống 3,1%năm 2006 , 1,6% năm 2007 .Dự báo 1,8% năm 2008 (Nguồn KuWait Statistic-01/08).
3 - Phúc lợi và chính sách xã hội:
Tổng dân số Ku Wait: 3,183 triệu nguời năm 2006, tăng 6,4% so với 2,991 triệu năm 2005. Sự tăng dân số chủ yếu trong bộ phận dân nhâp cư không phải nguời KuWait và chủ yếu tăng lực lượng lao động bình quân 8,4 %/năm ,tạo giá trị gia tăng kinh tế đáng kể cho KuWait. Chính sách an sinh xã hội và bảo trợ của nhà nuớc cho mỗi nguời dân Ku Wait rất ưu việt ,đảm bảo đời sống ổn định, sung túc,đăc biệt trong các lĩnh vực: giáo dục, y tế, nhà ở, lương thực, các dịnh vụ điện, nuớc ,hàng hoá gia dụng thiết yếu . Ngoài ra , để đảm bảo cho sự phát triển thế hệ tương lai của Kuwait , nhà nuớc đã quyết định cắt 10% thặng dư ngân sách hàng năm để thiết lập quỹ tài chính vì thế hệ tương lai. Điều này làm cho nguời dân Ku Wait tin tưởng và ủng hộ chính phủ với tỷ lệ rất cao, tình hình chính trị ổn định nhất trong các nuớc vùng vịnh .
4 - Các chỉ số tài chính :(năm tài chính từ tháng 4 - tháng 3 năm sau)
Tổng thu nhập “ ròng ” ngân sách : 46,7tỷ USD năm 2005-2006: 53,4 tỷ USD năm 2006-2007
Dự tính đạt : 69,93 tỷ USD năm 2007-2008 , tăng 227,1% so với kế hoạch đề ra là 8,32 tỷ KD tương đương 30,8 tỷ USD. ( Nguồn Arab Times ngày 17/5/2008)
Trong đó thu từ dầu mỏ : 27,53 tỷ USD năm 2005-2006: 31,51 tỷ USD, 2006-2007
Dự tính đạt : 41,3 tỷ USD – 2007-2008 , tăng 49,6% so với kế hoạch đề ra năm 2007-2008 ( 7,45 tỷ KD tương đương 27,6 tỷ USD ). Kế hoạch mục tiêu thu ngân sách nhà nuớc của Kuwait năm tài chính 2008-2009 chủ yếu trông cậy vào nguồn thu từ dầu lửa . Dự tính nguồn thu từ dầu lửa sẽ chiếm 92% tổng thu nhập ngân sách quốc gia và đạt mức 11,65 tỷ KD tương đương 43,22 tỷ USD, tăng 56,4% so kế hoạch dự kiến 2007-2008.
Trong tháng 01 năm 2008, Nội các Kuwait đã phê dưyệt thu ngân sách quốc gia cho năm tài chính 2008-2009 ( từ tháng 4 /08 đến tháng ba /09 ) dự tính là 12,68 tỷ KD, tương đương 46,9 tỷ USD , tuy nhiên còn phải đuợc quốc hội Kuwait phê chuẩn cuối cùng.
Tổng chi tiêu của chính phủ : 23,33tỷ USD năm 2005-2006: 28,51 tỷ USD năm 2006-2007
Dự tính lên đến : 41,81 tỷ USD năm 2007-2008 ( 11,3 tỷ KD theo công báo của nội các Kuwait tháng 2 năm 2008 ). tăng 20,8 % so kế hoạch đã định .
Thặng dư ngân sách : 23,37 tỷ USD năm 2005-2006: 24.89 tỷ USSD năm 2006-2007
Dự tính kế hoạch ban đầu : 28,12 tỷ USD năm 2007-2008 , nhưng theo công bố mới nhất của cơ quan Quản Lí điều phối tài chính nhà nuớc Kuwait ( Arab Times ngày 17/5/08 ) thì mức thặng dư ngân sách năm tài chính 2007-2008 đạt kỷ lục : 35,335 tỷ USD ,( 9,55 tỷ KD ).
Thặng dư ngân sách sau khi đã trích nộp 10% lập quỹ vì thế hệ tương lai: 21,00 tỷ USD năm 2005-2006, 22,401tỷ USD năm 2006-2007
Dự tính : 31,8 tỷ USD năm 2007-2008 ( theo số liệu công bố mới nhất )
Theo nguồn dữ liêu của cơ quan thống kê nhà nuớc Kuwait năm 2007 trên cơ sở giá dầu mỏ 67,6 USD/ thùng , với thặng dư ngân sách dự tính năm 2007-2008 là: 28,12 tỷ USD – 2,812 tỷ quỹ vì thế hệ tơng lai = 25,31 tỷ USD .Tuy nhiên đến cuối quý I năm 2008 giá dầu mỏ lại tăng lên trên 115USD /thùng ,nên đã có sự điều chỉnh lại và số dư ngân sách dự tính là 31,8 tỷ USD năm tài chính 2007-2008 ( sau khi đã trích nộp 10% quĩ vì thế hệ tương lai )
5 - Cán cân thanh toán xuất nhập khẩu của KuWait:
A- Kim ngạch xuất khẩu và tái xuất của KuWait đạt : 46,63 tỷ USD năm -2005, 58,70 tỷ USD năm -2006, 77,57 tỷ USD năm 2007
Dự báo khoảng : 79,65 tỷ USD năm 2008 (Kim ngạch xuât khẩu tính trên gía FOB cảng Ku Wait).
Giá trị kim ngạch xuât khẩu 2007-2008 dự tính tăng do giá dầu xuất khẩu tăng bình quân 45% so giá xuất khẩu năm 2006 .
B- Kim ngạch nhập khẩu của Ku Wait đạt : 14,13 tỷ USD năm 2005, 14,37 tỷ USD năm 2006
Dự tính : 25,12 tỷ USD năm 2007-2008
Giá trị kim ngạch nhập khẩu dự báo năm 2007- 2008 tăng do 3 nguyên nhân:
a - Giá trị USD sụt giảm so vàng 33% ( giai đoạn 2006-2008)
b - Nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị phục vụ cho các dự án lớn sẽ đuợc triển khai trong giai đoạn 2008-2015 là:
* Dự án xây dựng khu công nghệ lớn dầu khí phía Bắc ,dự án xây dựng thành phố mới mang tên Jaber AL-Hhmad City – một thành phố hiện đại nhất tại phía Bắc khu Amghara, dự án xây dựng đảo Failaka thành khu dư lịch hiện đai với số vốn đầu từ2,7tỷ USD , dự án xây dựng cảng biển lớn trên đảo Bubiyan với số vốn 1,2 tỷ USD .
* Dự án xây dựng thành phố Subiyah nối với Ku Wait City,với hệ thống giao thông hiện đại .
* Dự án xây dựng thành phố Liberation City hiện đại với toà tháp mang tên Ku wait Tower cao 1100m gần 250 tầng .Ngoài ra còn có các dự án xây mới các nhà máy hoá dầu 615.000thùng/ngày nâng cấp các nhà máy hoá dầu và khí gaz 180triệu feet/ngày. Đây la cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu tham gia đầu từ, xuất khẩu lao động có tay nghề chuyên môn, xuất khảu hàng hoá , thiết bị phù hợp vào Kuwait .
c - Thu nhập bình quân đầu nguời (GDP/đầu nguời ) đạt 38,44USD/ nguời năm 2007-2008. Nếu chỉ tính riêng số dân Kuwait bản địa thì còn cao hơn nhiều . Với thu nhập bình quân đầu nguời cao tạo ra nhu cầu tiêu dùng lớn ,làm tăng kim ngạch nhập khẩu .
6 - Nguồn thu từ các hoạt động đầu tư tài chính của Ku wait và dư thu từ đầu từ nước ngoài đạt 8,80tỷ USD năm 2005 và 11,67 tỷ USD năm 2006. Dự báo đạt 13,2 tỷ USD năm 2007-2008 và thặng dư ngân sách tài chính năm 2008 lớn nhu kể trên . Đây sẽ là cơ hội tốt cho ta trong việc kêu gọi các nhà đầu từKuwait tham gia vào phát triển công nghiệp tại Việt nam . Đặc biệt trong lĩnh vực đầu từdịch vụ , khai thác và chế biến dầu khí tại Việt Nam .
7 - Thị trường chứng khoán Kuwait tụt giảm so với năm 2005 .Tổng số cổ phiếu trao đổi và tổng trị giá chứng khoán trao đổi trên thị trừơng và số lần giao dịch giảm lần lựơt : 27,9%., 39,2% ., 24% . Chỉ số KSE của thị trừơng chứng khoán Ku wait năm 2006-2007 giảm 12% - 15% so với năm 2005 . Dự báo năm 2008 còn sụt giảm .Tuy giá dầu tăng mạnh liên tục nhưng thị trường chứng khoán Kuwait không tránh khỏi các tác động tiêu cực suy giảm của hệ thống chứng khoán ,tài chính thế giới. Nhưng sự suy giảm trong lĩnh vực này không đủ sức gây khó khăn cho kinh tế Ku wait vì nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP của Kuwait (khoảng10,8%/GDP ).
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Tại hội thảo Chuẩn bị và đối phó chống bán phá giá của ngành nhựa Việt Nam do Hiệp hội Nhựa Việt Nam tổ chức ngày 18-10, luật sư Ken Pierce (Công ty luật Hughes Hubbard & Reed) cho biết các nhà sản xuất Mỹ đang tính chuyện kiện bán phá giá đối với túi nilông từ Việt Nam.
Trong khi nhiều mặt hàng xuất khẩu trong 3 tháng cuối năm và dự báo cả năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn trước tình hình kinh tế thế giới ảm đạm thì có những mặt hàng nhắm vào phân khúc hẹp trên thị trường lại gặp thuận lợi, thậm chí còn tăng trưởng mạnh. Hai nhóm mặt hàng chuyên đi vào thị trường “ngách” (theo cách gọi của Bộ Công Thương) lâu nay là dây và cáp điện cùng túi xách, vali, mũ, ô dù, đang thể hiện những điều nói trên.
Nằm ở vị trí đắc địa, cửa ngõ thương mại của khu vực Trung Đông, môi trường kinh doanh thuận lợi dựa trên cơ sở không có thuế, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) là đối tác không nên bỏ qua.
Tại Hội thảo giới thiệu tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Trung Đông, vừa được Cục Xúc tiến thương mại tổ chức tại Hà Nội, Iran được đánh giá là thị trường đầu tư và xuất khẩu hấp dẫn mà các doanh nghiệp Việt Nam không thể bỏ qua.
Trong 8 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu túi xách, ví, va li, mũ, ô dù của Việt Nam sang EU tăng 36,8% so với năm 2007, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt cao nhất với 161,57 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thương vụ Việt Nam giới thiệu về các rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Ma-rốc.
Theo Thương vụ Việt nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là một trong những nước có ngành công nghiệp dệt may giữ vai trò hàng đầu.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là nước nhập khẩu đứng đầu thế giới về chè xanh với lượng tiêu thụ mỗi năm 30.000 tấn. Dự kiến đến năm 2010, Maroc sẽ nhập khẩu 57.100 tấn, tăng 4,5% mỗi năm.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....