Pháp là thị trường xuất tiêu thụ thủy sản lớn thứ hai trong khu vực Liên minh châu Âu (EU) chỉ sau Tây Ban Nha. Các sản phẩm tiêu thụ chủ yếu là cá hồi, cá tuyết. Tuy nhiên các sản phẩm mới cá ngừ, tôm cua cũng đang có xu hướng phát triển mạnh tại Pháp. Nhờ vào sự tiện ích của mình, doanh thu của các sản phẩm cá đông lạnh tại Pháp đang tăng lên nhanh chóng. Sản xuất trong ngành chế biến cá cũng phát triển mạnh, song trong thời gian gần đây, hoạt động đánh bắt cá đang có dấu hiệu giảm dần, sản xuất trong thị trường nội địa theo đó cũng giảm.
Ngành công nghiệp chế biến thủy sản Pháp hiện đang phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu. Nhập khẩu thủy sản từ các nước đang phát triển đang tăng mạnh, gấp hai lần so với tốc độ nhập khẩu chung của Pháp. Giai đoạn từ năm 2003 – 2007, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thủy sản của Pháp là 6,4%. Các nước đang phát triển hiện đang là những nước cung cấp chính các sản phẩm thủy sản tươi và đông lạnh cho thị trường Pháp, đặc biệt là sản phẩm cá ngừ, tôm, cua đã qua chế biến.
Tình hình nhập khẩu thủy sản của Pháp
Tiêu thụ thủy sản của Pháp năm 2006 đạt 1,5 triệu tấn. Trung bình, một người dân Pháp tiêu thụ 24 kg thủy sản/năm, trong khi đó trung bình tiêu dùng thủy sản của toàn EU là 21kg/năm. Về nhập khẩu, Pháp là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ hai trong EU, chiếm 13% trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của toàn EU và 11% về sản lượng. Trong năm 2007, Pháp đã nhập khẩu 997.000 tấn thủy sản, có giá trị đạt 3,8 tỷ Euro. Các sản phẩm thủy sản nhập khẩu chủ yếu của Pháp là cá tươi và cá đông lạnh (chiếm 50% tổng giá trị nhập khẩu trong năm 2007), tôm đông lạnh và tươi chiếm 19%, cá chế biến 15%, động vật thân mềm như mực đông lạnh là 8%, động vật thâm mềm chế biến là 5%, còn lại là các loại khác.
Trong giai đoạn từ 2003 – 2007, nhập khẩu tăng 14% về giá trị và 5% về sản lượng. Các nước xuất khẩu thủy sản chính sang Pháp là Anh và Hà Lan. Hà Lan xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm tôm tươi và tôm đông lạnh và các loại cá nước ngọt, trong khi đó Anh xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm động vật thân mềm và cá hồi tươi và đông lạnh. So với năm 2003, trong năm 2007 nhập khẩu từ các nước trong khu vực EU tăng lên 12% về giá trị, nhưng giảm 2% về sản lượng.
Nhập khẩu thủy sản từ các nước đang phát triển cũng đang tăng mạnh trong những năm gần đây. Chỉ tính riêng năm 2007, 32% tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của Pháp là từ các nước đang phát triển. Madagascar là nước đang phát triển cung cấp lớn nhất cho Pháp, chiếm 3% tổng giá trị nhập khẩu với các sản phẩm chính là cá ngừ và tôm tươi, đông lạnh. Ngoài ra, có một lượng lớn các nước đang phát triển có thị phần nhỏ trên thị trường tiêu thụ thủy sản của Pháp, một vài trong số họ có thế mạnh về một loại thủy sản cụ thể. Ví dụ như Chile có thế mạnh về cá hồi tươi và cá hồi đông lạnh. Cá tươi và cá đông lạnh có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất với 21% về giá trị.
Nếu tính theo các nhóm sản phẩm, Pháp là nước nhập khẩu cá tươi và cá đông lạnh lớn thứ 3 EU, chiếm 11,5% giá trị nhập khẩu của EU trong năm 2007. Tốc độ nhập khẩu các sản phẩm này từ năm 2003 – 2007 tăng 21% về giá trị và 4% về sản lượng. Trung bình giá trị nhập khẩu mặt hàng này tăng 5% hàng năm. Các sản phẩm nhập khẩu chính là cá hồi, cá tuyết và các sản phẩm cá nước ngọt. Tuy nhiên, đối với nhóm hàng này, Pháp chủ yếu nhập khẩu lại từ các nước trong EU với 70% tổng giá trị nhập khẩu của nước này. Nhập khẩu từ các nước đang phát triển hiện đang tăng mạnh chủ yếu là mặt hàng các nước ngọt. Từ năm 2003 -2007, nhập khẩu từ các nước đang phát triển tăng 90% về giá trị và 60% về sản lượng.
Mặc dù, cá hồi và cá tuyết được sử dụng nhiều tại Pháp, tuy nhiên thị phần cá nước ngọt đang tăng mạnh. Trong giai đoạn từ năm 2003 – 2007, nhập khẩu mặt hàng này tăng 119% về giá trị và 139% về sản lượng. Các nước EU vẫn chiếm thị phần lớn nhất với 57% tổng giá trị nhập khẩu năm 2007. Thị phần nhập khẩu mặt hàng này từ các nước đang phát triển chiếm 41%, trong đó Uganda là nước cung cấp chính cho Pháp (25% thị phần), tiếp đó là Việt Nam (4,5%), Tanzania (3,7%) và Thái Lan (3,5%).
Đối với nhóm hàng động vật có giáp như tôm, cua, Pháp là nhà nhập khẩu lớn thứ hai của EU chỉ sau Pháp, chiếm 18% giá trị nhập khẩu của EU trong năm 2007. Nhóm hàng này chiếm 19% giá trị nhập khẩu các sản phẩm thủy sản của Pháp. Trong giai đoạn năm 2003 – 2007, nhập khẩu tăng 2% về giá trị và 8,5% về sản lượng. Các nước đang phát triển là các nước cung cấp chính với 45% tổng sản phẩm nhập khẩu nhóm hàng này của Pháp. Trong đó, tôm tươi và đông lạnh chiếm 62% thị phần trong năm 2007, tăng 16% so với năm 2003. Các nước cung cấp tôm tươi và đông lạnh chính cho Pháp là Madagascar (18% thị phần), Ấn Độ (8%), Brazil (8%) và Ecuador (7%).
Pháp là nước nhập khẩu cá chế biến sẵn lớn thứ ba của EU sau Italia và Anh, chiếm 15% giá trị nhập khẩu nhóm hàng này của EU trong năm 2007 với những loại cá chính như cá ngừ, cá mòi và cá trống. Các nước đang phát triển cung cấp chủ yếu sản phẩm cá ngừ cho Pháp với 85% tổng giá trị nhập khẩu cá ngừ của nước này. Đối với các sản phẩm động vật thân mềm như mực, ốc,… Pháp cũng nước nhập khẩu lớn thứ 3 của EU sau Anh và Đan Mạch. Những nước cung cấp sản phẩm này chính cho Pháp là Chile chiếm 18% thị phần, Thổ Nhĩ Kỳ 9%, Thái Lan 12%, Việt Nam 6%, Ecuador 3%.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Pháp
Pháp là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ 2 của EU, trong khi đó EU lại là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Hiện EU chiếm 25,3% tổng lượng xuất khẩu thủy sản của cả nước. Do đó đây sẽ là cơ hội rất tốt để ngành thủy sản của Việt Nam phát triển tại Pháp. Hiện nay, kim ngạch nhập khẩu hàng thuỷ sản hàng năm của Pháp chiếm 11,5% tổng kim ngạch nhập khẩu lương thực, thực phẩm của nước này. Trong đó, mặt hàng tôm được tiêu thụ nhiều nhất với kim ngạch nhập khẩu hàng năm khoảng 950 triệu USD, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản.
Trong năm 2007, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Pháp mặt hàng cá philê đông lạnh, tôm đông lạnh và thuỷ sản đóng hộp với kim ngạch xuất khẩu đạt 63,64 triệu USD. Năm 2008, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Pháp đạt 91,7 triệu USD, tăng 44% so với năm 2007. Trong khuôn khổ WTO, Pháp cùng EU thực thi chính sách thương mại, đồng thời tìm kiếm giải pháp và hỗ trợ kỹ thuật để giúp các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thực thi chính sách cải cách kinh tế có hiệu quả. Khung pháp lý về thị trường Pháp đã mở hoàn toàn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Tất cả hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Pháp đều không bị áp hạn ngạch. Tuy nhiên, khi xuất khẩu sang thị trường này, các doanh nghiệp cần chú ý mọi hàng hóa nhập khẩu của Pháp đều được quản lý bằng chính sách thương mại chung của EU, phải chịu giám sát của Hải quan và phải kê khai với hải quan bằng văn bản, trong đó ghi rõ giá trị thuế quan, xuất xứ hàng hóa và phân loại hàng hóa theo biểu thuế quan: các nhóm hàng hóa bị hạn chế hoặc cấm nhập khẩu.
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, Chăn nuôi và Cung ứng Braxin, kim ngạch trao đổi các sản phẩm có nguồn gốc từ động và thực vật giữa Braxin và Việt Nam đạt 318,368 triệu USD năm 2008, tăng 44,93% so với năm 2007, trong đó Braxin xuất sang Việt Nam 285,422 triệu USD, tăng 43,64%.
Nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc của Canada vào khoảng trên 20 tỷ đô la Canada (Cad)/ năm, trong đó trên một nửa là quần áo phụ nữ, tiếp đến là quần áo nam giới, số còn lại là quần áo trẻ em và quần áo chuyên dụng khác.
Quyết định khôn ngoan nhất đối với một doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, chính là giữ chữ tín, nâng cao chất lượng sản phẩm... Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng tuân thủ được điều đó.
Vừa qua, Cty có NK một số máy móc tạo tài sản cố định nhưng do khi mua về lắp ráp không đúng ngành để sản xuất theo đơn hàng. Cty muốn xuất trả lại cho nơi bán thì thủ tục như thế nào? Công văn giải trình để hủy tờ khai?
Theo nhận định của VCCI, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu trong đó có Hoa Kỳ đang gặp khó khăn do khủng hoảng, việc một đoàn doanh nghiệp Hoa Kỳ tới tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư có thể thể thấy thị trường Việt Nam vẫn rất hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Hiệp hội Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (Vasep), Nhật Bản hiện là thị trường tiêu thụ tôm đông lạnh lớn nhất của Việt Nam và đang tăng cường nhập khẩu cá ngừ và các loại cá biển từ Việt Nam.
Mặc dù kinh tế thế giới có những biến động không thuận, song thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Phần Lan vẫn tiếp tục gia tăng.
Israel là nước có số dân là: 7,1 triệu người, GDP bình quân đầu người: 28.900 USD/người; Tăng trưởng GDP: 4,2%; Cơ cấu kinh tế; nông nghiệp 2,7%, công nghiệp 31,7%, dịch vụ 65,6%; Kim ngạch xuất khẩu: 54,2 tỉ USD.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....