Cá cơm có thân mình trắng, dài chừng đốt ngón tay. Cá cơm chỉ có vào mùa nước  cạn, khoảng tháng ba âm lịch. Tuy nhiên, trước đó khoảng nửa tháng, người ta đã  thấy nó xuất hiện, lúc này chúng hãy còn rất nhỏ, chỉ to hơn cây tăm  một  chút, dân gian không gọi nó là cá cơm mà gọi cá mờm.
 
Ngư dân đánh bắt cá cơm trên các sông Tiền, sông Hậu (cá cơm không vào kinh  rạch) bằng loại lưới dệt thật dày. Do chúng sống ở tầng nước mặt nên không dùng  lưới sâu dạo, chỉ cần dài, càng dài càng bắt được nhiều cá, do đó phạm vi bao  chiếm của lưới khá rộng, thường là khoảng nửa sông. Tất nhiên muốn đánh bắt nó  phải chờ con nước ròng, mới "trúng".
 
Mùa cá cơm chỉ diễn ra trên dưới một tháng do thế bà con tranh thủ thả lưới  cả ban đêm. Ðêm An Giang tháng ba trời đứng gió, mặt nước sông tĩnh lặng nên  người ta thường thả lưới lúc đầu hôm. Cứ khoảng ba, bốn mét thì mắc một chiếc  đèn phao để ghe tàu tránh lưới. Trong đêm tối, hàng nghìn chiếc đèn lưới cá cơm  chầm chậm trôi, hết dây lưới này đến dây lưới kia, tạo nên một cảnh tượng huyền  ảo lung linh vô cùng quyến rũ, như những vì sao nhỏ kết dệt sông Ngân Hà tháng  bảy trên mặt nước.
 
Con cá cơm tuy nhỏ, nhưng rất nhiều xương. Ngoài xương sống ra, cá cơm còn có  "bộ xương" li ti tập trung đậm đặc ở lườn (bụng), rất nhám do đó khi chế biến  thức ăn, phải dùng kéo cắt bỏ đầu và lườn (và cũng để bỏ ruột). Ngoài các cách  kho thông thường, nhất là kho lạt bằm xoài sống, người ta còn đem phơi nắng cho  cá vừa cứng mình, đem kho khô, mặn nhưng phải ngọt, chế mỡ, rắc tiêu, ăn với  cháo trắng... Có nghĩa, nó được chế biến dưới nhiều dạng, kể cả làm khô (không  nướng mà phải rang, vì quá nhỏ) để dùng trong các bữa ăn dân dã, khá ngon miệng.  Cá cơm, cá mờm cũng là một loại "mồi bén" dùng "đưa cay" rất ghịch, phổ biến là  trộn với trứng vịt và bột, chiên về, ăn với dưa leo, rau sống, chuối chát,  khế... Nhưng tuyệt nhất là làm nem. Cái khó là phải rút xương từng con! Nói khó  chứ thật ra chẳng có gì là khó cả, bởi các bà các chị khéo tay vẫn có cách!
 
Khi đã làm và rửa sạch vảy, đem cá cơm ngâm nước muối măn mẳn, bao giờ thịt  cá tét làm hai thì vớt ra, gỡ bỏ xương, ngâm trong nước dừa tươi. Lại vớt ra rổ  xóc nhẹ cho ráo. Ðoạn đổ hết thịt cá vào khăn xô (vải mùng), vắt cho thật khô,  rồi quết nhuyễn chung với tỏi nướng. Số lượng tỏi trung bình là 100g cho hai ký  cá.
 
Cho gia vị muối, đường, bột ngọt, mỡ, bún tàu (cắt khúc chừng 5cm, để khô),  nửa muỗng cà-phê nước củ riềng, thính trắng, mầu bột thực phẩm, tiêu (để nguyên  hột còn sống, hoặc rang với mỡ), tỏi sống (xắt lát mỏng), trộn đều. Xong, thấm  tay vào chén mỡ nước, làm thành viên.
 
Lấy năm, sáu lá chùm ruột non gói sơ, lại gói thêm một lá vông nem, rồi mới  quấn lá chuối bên ngoài, cột dây lại theo hình chữ thập. Bốn ngày sau ăn được,  nhưng không để lâu quá mươi ngày. Muốn ăn sớm hơn thì treo trên giàn hai, ba  ngày là ăn được.
 
Nhâm nhi với ba xị đế, có người phát biểu, món này phải nói là "cá cơm đệ  nhất nem" vì nếu không ngon như "chả phượng", chắc cũng không kém "nem  công"!