3. Chiến lược rút ngắn khoảng cách phát triển
Phân tích trong phần trên cho thấy một cách khái quát là Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan khoảng 20 năm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ta phải cần một thời gian như vậy mới bằng mức của Thái Lan bây giờ. Các nước đi sau nếu có chính sách đúng đắn có thể đốt giai đoạn và đây là khuynh hướng chung có thể thấy trong trường hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước khác. Thêm vào đó, như đã nói ở trên, nếu ta phát triển trong sự phân phối đồng đều hơn, và trong điều kiện môi sinh, môi trường tốt hơn, nghĩa là chất lượng phát triển tốt hơn, thì ta có thể đạt được mức sống bằng Thái Lan bây giờ với mức lợi tức đầu người thấp hơn.
So với Thái Lan, Việt Nam hiện nay có một số lợi thế, nhất là về mặt nhân lực. Một số chỉ tiêu về phát triển con người. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổng kết các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, thu nhập, đã đưa ra một chỉ số tổng hợp về việc phát triển nhân lực (human development index) của 177 nước. Theo Human Development Report 2004 (UNDP), vào năm 2002, Việt Nam xếp thứ 112 và Thái Lan thứ 76, Trung Quốc thứ 94. Nếu xếp hạng theo GDP bình quân đầu người tính theo PPP thì Việt Nam đứng thứ 124, Thái Lan 67 và Trung Quốc 99. Các thống kê này cho thấy so với GDP/đầu người, Việt Nam có trình độ về nguồn nhân lực tương đối cao. Nếu nhìn các chỉ tiêu về nguồn nhân lực ở một số khía cạnh hẹp hơn như tỷ lệ người lớn biết chữ, ta thấy Việt Nam xấp xỉ Trung Quốc và không thua kém bao nhiêu so với Thái Lan.
Mặc dù tình hình giáo dục xuống cấp ở Việt Nam hiện nay đang làm nhiều người lo ngại, nhưng nhìn vấn đề ở một góc độ khác, có thể nói nếu những vấn đề giáo dục hiện nay được quan tâm giải quyết triệt để thì trình độ về nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ được nâng cao hơn nữa và nếu lợi thế này được phát huy, khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước chung quanh sẽ rất lớn.
Một thuận lợi khác của Việt Nam là vị trí địa lý với bờ biển dài tiếp cận dễ dàng với các nước phát triển trong khu vực. Yếu tố này cùng với sự ổn định về chính trị, xã hội và tiềm năng về con người nói trên đã khiến nhiều công ty nước ngoài quan tâm đến Việt Nam từ đầu thập niên 1990. Nếu môi trường đầu tư được cải thiện, ta sẽ không thiếu tư bản, công nghệ và tri thức kinh doanh cần thiết để đuổi theo các nước chung quanh trong quá trình phát triển.
Thuận lợi thứ ba là việc phân bổ các thành phố, các trung tâm kinh tế trong cả nước tương đối hài hoà. Nếu có kế hoạch từ bây giờ, dân số và hoạt động kinh tế sẽ được phân tán rộng khắp cả nước, tránh tình trạng ô nhiễm môi trường và ngăn ngừa sự chênh lệch quá lớn về lợi tức giữa các tầng lớp dân chúng và giữa các khu vực. Đây là điều kiện để nâng cao chất lượng phát triển.
Những thuận lợi vừa nói chỉ là tiềm năng. Phải khơi dậy các tiềm năng này để kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững. Nếu có quyết tâm vì sự nghiệp phát triển đất nước và từ đó ưu tiên tạo ra các cơ chế khơi dậy tiềm năng và tập trung trí tuệ xây dựng chiến lược phát triển đúng đắn, Việt Nam có thể phát triển trung bình trên dưới 9% năm (GDP bình quân đầu người tăng xấp xỉ 7-8%/năm) trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI. Thực hiện được mục tiêu này thì cứ 10 năm mức sống của người Việt Nam sẽ tăng gấp đôi. Để kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững trong thời gian dài như vậy phải vừa đẩy nhanh quá trình tích luỹ tư bản vừa tạo điều kiện để kinh tế phát triển có hiệu suất. Ta thử bàn thêm hai điểm này.
Thứ nhất, vấn đề tích luỹ tư bản. Vấn đề hiện nay của Việt Nam là phải tạo môi trường thuận lợi để kích thích tư bản trong nước và nước ngoài tích cực đầu tư. Giữa những năm 1990, tỷ lệ của tổng đầu tư trong GDP tăng nhanh, đạt mức 27-28% nhưng sau đó giảm mạnh. Điều này một phần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Á nhưng phần quan trọng là do bộ máy hành chính kém hiệu quả làm cho phí tổn hành chính trong hoạt động đầu tư quá cao. Phương châm, đường lối về việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã có nhưng trên thực tế, thành phần ngoài nhà nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, trong việc tiếp cận thông tin về cơ hội đầu tư, về thị trường... Việc định hướng chiến lược công nghiệp hoá không rõ ràng và phương châm, chính sách hay thay đổi làm cho độ rủi ro của các dự án đầu tư quá cao. Từ năm 2002, tỷ lệ của tổng đầu tư trong GDP tăng trở lại, đạt đến gần 34% vào năm 2003, nhưng đó là kết quả của việc cạnh tranh chạy dự án đầu tư của các bộ ngành, và các địa phương chứ không phải là hiện tượng tích luỹ tư bản lành mạnh. Điều này thể hiện trong việc giảm sút hiệu quả của đồng vốn đầu tư, phản ánh trong khuynh hướng tăng của việc hệ số ICOR (Increamental Capital - Output Ratio): Hệ số chỉ số vốn tăng cần thiết để tăng một sản lượng nhất định.
Để tích luỹ tư bản nhanh và có hiệu quả cần tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, FDI giảm liên tục từ năm 1997, gần đây mới hồi phục nhưng còn yếu. Trong tình trạng doanh nghiệp tư nhân trong nước còn nhỏ bé, các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém và đang trong quá trình cải cách, nếu không có một sự xoay chiều mạnh mẽ trong FDI thì liệu kinh tế Việt Nam có tăng trưởng được ở mức cao hay không? Nhìn sang các nước châu Á lân cận, ta thấy họ ngày càng nhận thức vai trò quan trọng của FDI trong xu thế toàn cầu hoá, và ra sức tạo điều kiện để thu hút FDI hơn nữa. Các nước này với quá trình phát triển và thu hút FDI trong nhiều thập kỷ đã xây dựng được một nền công nghiệp vững mạnh hơn Việt Nam rất nhiều. Có thể nói trình độ kỹ thuật, công nghệ, bề dày của tri thức quản lý kinh doanh tại các nước này đã tăng nhanh và phụ thuộc nhiều vào độ lớn của FDI được tích luỹ (FDI stock). Là một nước đi sau, FDI stock của Việt Nam quá nhỏ so với các nước lân cận là đương nhiên. Nhưng vấn đề đáng quan tâm ở đây là lưu lượng hàng năm (flow) của FDI vào Việt Nam cũng quá nhỏ so với Thái Lan chẳng hạn. Để rút ngắn khoảng cách, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, phải quan tâm hơn đến vai trò của FDI. Điểm này sẽ được phân tích sâu hơn ở Chương 12. Trần Văn Thọ (2000b) bàn về sự liên quan giữa FDI với nguy cơ tụt hậu. .ð
Thứ hai là vấn đề phát triển có hiệu suất. Cùng với việc đẩy mạnh tích luỹ tư bản, phát triển có hiệu suất là biện pháp hữu hiệu nhất để rút ngắn khoảng cách với các nước xung quanh. Tích luỹ tư bản dù được đẩy mạnh cũng không thể vượt qua một giới hạn nhất định vì vấn đề môi trường và những hạn chế về vốn, về công nghệ và thị trường, v.v.. Do đó, với cùng một tốc độ về tích luỹ tư bản nhưng nước nào phát triển có hiệu suất thì nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ cao hơn. Các nền kinh tế như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia, Đài Loan và Hàn Quốc trong giai đoạn 1960 - 1994, tích luỹ tư bản đóng vai trò rất lớn, lớn hơn cả Nhật Bản trong giai đoạn 1950 - 1973 là giai đoạn phát triển thần kỳ của nước này, nhưng Nhật Bản phát triển có hiệu suất hơn nhiều (thể hiện bằng độ cống hiến của hiệu suất toàn yếu tố - total factor productivity, TFP) nên tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản cao hơn các nước châu Á khác.
Điểm này có nhiều gợi ý đối với Việt Nam. Để phát triển có hiệu suất, Việt Nam cần phải làm gì? Tôi đã có dịp phân tích trong cuốn sách xuất bản tám năm trước (Trần Văn Thọ, 1997, Chương 2), ở đây chỉ tóm tắt (và bổ sung) một vài điểm sau: Thứ nhất, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (giữa các thành phần kinh tế) và hội nhập tích cực vào thị trường thế giới để tư bản và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Thứ hai, có kế hoạch dài hạn trong việc xây dựng nguồn nhân lực đồng thời tạo cơ chế để nhân tài được sử dụng đúng chỗ. Thứ ba, tạo môi trường để khoa học và công nghệ ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam, tri thức về công nghệ và quản lý, kinh doanh được phổ biến rộng khắp. Thứ tư, bộ máy hành chính cần phải được cải cách nhanh (quy rõ trách nhiệm và quyền hạn các cấp để có thể phân cấp quản lý) và tạo cơ chế để người tài giỏi và có phẩm chất đạo đức giữ những chức vụ quản lý nhà nước. Bộ máy hành chính như hiện nay dễ làm tăng phí tổn hành chính của doanh nghiệp và làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực. Trong trạng thái đó, doanh nghiệp sẽ tìm cách tạo quan hệ không chính đáng với quan chức quản lý mà kinh tế học phát triển gọi là mưu tìm đặc lợi (rent-seeking) thay vì nỗ lực tìm kiếm thị trường, cải tiến công nghệ để giảm giá thành và tăng phẩm chất hàng sản xuất. Một nước phát triển nhanh và có hiệu suất khi các doanh nghiệp hăng hái, nỗ lực trong việc mưu tìm lợi nhuận (prrofit-seeking) chân chính hơn là mưu tìm đặc lợi.
Kết luận
Việc tính toán lại số liệu thống kê kinh tế Việt Nam từ năm 1955 đã cho phép ta với tầm nhìn dài hạn so sánh được cơ cấu và nhịp độ phát triển của kinh tế nước ta với các nước xung quanh.
Trong nửa sau thế kỷ XX, dòng thác công nghiệp đã lan nhanh cả về bề sâu và bề rộng tại vùng Đông Á. Công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam hội nhập vào làn sóng công nghiệp tại khu vực này từ đầu thập niên 1990 nhưng vào đầu thế kỷ XXI, giữa Việt Nam và các nước lân cận còn một khoảng cách lớn về trình độ phát triển.
Trong vài thập niên tới, với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một khu vực mà công nghệ, tư bản và tri thức kinh doanh đang di chuyển nhộn nhịp, Việt Nam hoàn toàn có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải có quyết tâm vì mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, mạnh dạn đổi mới hơn nữa để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và tích cực thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đó là những yếu tố quan trọng để tư bản tích luỹ nhanh và kinh tế phát triển có hiệu suất, hai điều kiện tiên quyết để có tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo khả năng đuổi kịp các nước chung quanh. Trong quá trình đó, tiêu điểm lớn nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá của Việt Nam trong những năm tới đứng trước nhiều vấn đề mới và nhiều thách thức mới mà những chương sau sẽ phân tích kỹ.
-------------------
(Nguồn: Chương 1 của cuốn sách: Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa, sách của Giáo sư Kinh tế học Waseda – Tokyo TRẦN VĂN THỌ , Nhà xuất bản Trẻ)
(Theo Tuổi trẻ)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com