Chính sách hỗ trợ lãi suất vốn vay trung và dài hạn của Chính phủ đối với khu vực nông thôn để mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn… đã được triển khai gần 4 tháng.
Tuy nhiên đến nay, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn mới chỉ đạt 0,2% tổng dư nợ cho vay được hỗ trợ lãi suất.
Vốn “treo”, nông dân đợi
Quyết định 497/2009/QĐ-TTg được coi là đòn bẩy cho cơ giới hóa nông nghiệp, là động lực kích cầu đầu tư hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, giúp cho nông dân có điều kiện mua máy móc phục vụ sản xuất, nâng cao đời sống, cải thiện bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên, sau gần 4 tháng thực hiện, con số giải ngân của chương trình đạt rất thấp. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 8/2009, dư nợ hỗ trợ lãi suất theo Quyết định 497 chỉ đạt 812,26 tỷ đồng, chiếm vỏn vẹn 0,2% trong tổng dư nợ được hỗ trợ lãi suất.
Lý giải cho vấn đề này, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở một số tỉnh cho biết, nhiều nơi nông dân không thể tiếp cận nguồn vốn ưu đãi vì thủ tục, quy định quá chặt. Đối với nhiều nông dân, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được đem đi thế chấp ngân hàng ở những khoản vay trước đây, nay muốn vay hỗ trợ lãi suất thì không có sổ đỏ hoặc nếu có, giá trị tài sản thế chấp cũng không đủ để ngân hàng duyệt cho vay mua máy móc thiết bị sản xuất nông nghiệp.
Mặt khác, đối với các món vay thuộc đối tượng bắt buộc phải có hóa đơn theo quy định của Bộ Tài chính hoặc phiếu xuất kho,... nhưng khách hàng vay vốn, vốn là nông dân quen mua bán “trao tay”, ít khi lấy “hóa đơn đỏ”, do đó không có chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn vay nên ngân hàng thương mại không thể cho vay có hỗ trợ lãi suất.
Về các quy định vay vốn, để được hưởng lãi suất hỗ trợ, nông dân phải mua máy móc lắp ráp trong nước có tỉ lệ nội địa hóa từ 40% trở lên, trong khi ngoài thị trường những loại nông cụ đạt tỉ lệ nội địa trên rất ít. Các ngân hàng sợ làm sai quy định nên không dám cho vay.
“Nút thắt chính khiến các ngân hàng không thể giải ngân được là do các máy móc thiết bị mà người nông dân muốn mua không đủ điều kiện để vay tiền theo chương trình hỗ trợ lãi suất”, ông Nguyễn Thanh Toại, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) cho biết. Hơn nữa, ngoài tài sản thế chấp, lập kế hoạch sử dụng máy móc, vật tư, nông dân phải mua hàng tại các điểm bán hàng cố định.
Về phía doanh nghiệp bán hàng phải công khai nội dung đăng ký kèm theo niêm yết giá bán trong khi giá cả thị trường luôn biến động nên các doanh nghiệp cũng không tham gia tích cực.
Tại tỉnh Bến Tre, Quyết định 497 của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện hơn 2 tháng nhưng nông dân vẫn chưa “mặn mà" với chương trình này, mới có 53 khách hàng vay 1,7 tỉ đồng, dư nợ chiếm 0,5%.
Một trong các nguyên nhân là số tiền vay không được nhiều: 7 triệu đồng/ha để mua vật tư nông nghiệp và 5 triệu đồng/hộ mua vật liệu xây dựng nhà ở mà phải có hóa đơn, chứng từ...
Về vấn đề thủ tục, ông Toại khẳng định, mỗi ngân hàng có các điều kiện cho vay khác nhau nhưng dù thế nào thì cũng là để đảm bảo các khoản vay được an toàn, trả nợ đúng hạn. Còn về hóa đơn, chứng từ chứng minh xuất xứ hàng hóa, nếu không có các giấy tờ này thì các ngân hàng không thể định giá sản phẩm để cho vay.
Không thiếu vốn
Lãnh đạo nhiều ngân hàng khẳng định không thiếu vốn để cho vay, tuy nhiên trong bối cảnh thị trường còn nhiều khó khăn, lãi suất huy động đã lên rất cao, vì vậy rủi ro đối với việc phát triển tín dụng trung và dài hạn rất lớn, khiến ngân hàng “đắn đo” giải ngân vốn trung và dài hạn.
Hơn nữa, việc Ngân hàng Nhà nước quyết định hạ tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức tín dụng từ 40% xuống còn 30% cũng là một trong những lý do khiến các ngân hàng phải cân nhắc khi cho vay trung và dài hạn. Ngoài ra, “khách hàng chưa mặn mà tiếp cận vốn ngân hàng để đầu tư vì đầu ra của sản phẩm còn hạn chế.
Về phía ngân hàng thì không có lý do gì để từ chối cung ứng vốn cho những khách hàng có dự án kinh doanh khả thi và hiệu quả”, ông Phạm Quốc Thanh, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng An Bình (ABBank) nhận xét.
Một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, để việc tổ chức thực hiện chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở khu vực nông nghiệp - nông thôn nhanh chóng đi vào cuộc sống, sớm đem lại hiệu quả tích cực, rất cần các ngân hàng thương mại tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục thẩm định dự án vay vốn, giải ngân vốn vay nhanh chóng, kịp thời theo nhu cầu người vay; không được thu thêm bất kỳ khoản phụ phí nào chưa được pháp luật quy định.
Các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp cần nghiên cứu thực tiễn sản xuất để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, giảm giá bán hợp lý; tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật, hướng dẫn nông dân vận hành máy móc, thiết bị cơ giới; thực hiện tốt chính sách hậu mãi, bảo dưỡng, sửa chữa các sản phẩm đã bán cho khách hàng.
Một số tỉnh kiến nghị đối với máy móc thiết bị, đề nghị chỉ cần xác định xuất xứ hàng hóa có nhãn hiệu sản xuất tại Việt Nam. Các nhu cầu vay vốn cao hơn mức tối đa có hỗ trợ lãi suất như chi phí sản xuất/ha lúa, mức cho vay có hỗ trợ lãi suất trong xây dựng nhà ở nông thôn, đề nghị ngân hàng vẫn được cho vay nhưng khi hỗ trợ chỉ tính hỗ trợ lãi suất theo quy định.../.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Việt Nam đang bắt đầu xây dựng kịch bản phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 với một niềm tin ngày càng lớn về sự phục hồi kinh tế thế giới có tác động tích cực tới Việt Nam.
Một quyết định của UBND TP Hồ Chí Minh đang gây xôn xao cho các tiểu thương cũng như nhiều bà nội trợ. Đó là Quyết định 64 về quy hoạch kinh doanh nông sản, thực phẩm trên địa bàn thành phố, trong đó siết chặt quy định về bán buôn và bán lẻ các loại thịt, cá, rau, củ, quả.
Hiện nay, toàn TP Hà Nội có 962 hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) thu hút hàng vạn xã viên tham gia. Nhìn chung các HTX làm khá tốt những khâu dịch vụ đơn thuần phục vụ sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, còn không ít các HTX NN làm ăn yếu kém, chưa thể hiện được vai trò "bà đỡ" cho xã viên.
Minh bạch tài nguyên là một sáng kiến khởi nguồn từ lĩnh vực công nghiệp khai thác khoáng sản (dầu mỏ, than đá, vàng, kim cương, bauxite…), sau mở rộng ra đến cacao, gỗ, cát… Việc khai thác các nguồn tài nguyên nếu được quản lý tốt sẽ đem lại nguồn thu nhập rất lớn để các quốc gia tăng trưởng kinh tế và đẩy lùi đói nghèo. Ngược lại, sẽ làm cho đói nghèo, tham nhũng và các xung đột xã hội khác không những chẳng giảm đi mà còn trầm trọng hơn.
Đến nay, khi hơn 400 ngàn tỉ đồng tín dụng cho vay ưu đãi trong gói kích thích tăng trưởng kinh tế đã được giải ngân, những nhà làm chính sách đang tính toán đến “gói kích thích” lần thứ hai. Nhưng trước khi quyết định một gói kích thích tiếp theo cho năm tới, phải nghiêm túc xem xét hiệu quả gói kích cầu hiện tại.
Thời hạn của gói kích thích kinh tế lần thứ nhất đang gần kết thúc, và vì vậy ý định cho một gói kích thích thứ hai dường như đang hình thành ngày một rõ ràng. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một nghiên cứu hay khảo sát nào lượng hoá được những tác động của gói kích thích kinh tế lần thứ nhất một cách rõ ràng.
Đánh giá lại quá trình phát triển nông nghiệp và những vướng mắc tồn tại trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế ngành nông nghiệp trong 5 năm (2006-2010) và bàn biện pháp phát triển nông nghiệp trong 5 năm tới (2011-2015), đó là nội dung cuộc hội thảo quốc tế do Bộ NN&PTNT tổ chức trong 2 ngày 9 và 10 tháng 9 năm 2009 tại Hà Nội.
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu (XK) nông sản lớn trên thế giới với những mặt hàng chủ lực là gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu... Tuy nhiên, trên thực tế việc điều phối XK các mặt hàng nông sản gặp không ít khó khăn, giá trị kim ngạch thu về chưa tương xứng với tiềm năng, không ổn định, giá cả lên xuống thất thường, khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế rất yếu kém.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.