Nhiều chuyên gia, doanh nghiệp cho rằng việc tăng giá cần tính toán hài hòa lợi ích ngành điện và nền kinh tế, tránh “tăng hại”...
Sau khi ăn tết xong, người dân bắt đầu phải nghe thông tin tăng giá điện vì ngày 1-3 hằng năm là thời điểm điều chỉnh giá điện theo định hướng cơ chế thị trường.
Tăng giá, EVN vẫn lỗ
Năm 2011, theo nguồn tin của Tuổi Trẻ, một phương án tăng giá của EVN cho biết ngay cả khi giá điện 2011 tăng khoảng 30%, vẫn phải cắt giảm trên 2 tỉ kWh điện giá cao từ các nhà máy nhiệt điện. Một quan chức Bộ Công thương cho biết bộ phải giảm trừ khá nhiều yếu tố tăng giá của EVN và mức thấp nhất có thể chấp nhận được năm nay phải lên tới 18%.
Con số này có vẻ cao, nhưng thực tế chỉ tăng gần 200 đồng/kWh. Đồng thời, để đảm bảo ngành điện không quá khó khăn, có nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng thiếu điện trong dài hạn, Bộ Công thương đề xuất ngành than phải “chia sẻ”, không tăng giá bán than cho điện năm 2011.
Quan chức này trấn an: ngay cả ở phương án tăng 18%, thấp hơn nhiều so với đề nghị của EVN, Bộ Công thương vẫn yêu cầu EVN phải huy động điện giá cao vì nếu cắt, hệ thống điện mùa khô có thể thiếu tới mức khó có thể chấp nhận - trên 4 tỉ kWh (trong khi cắt điện mùa khô 2010 chỉ trên 1,3 tỉ kWh).
Để giảm hơn nữa so với mức 18%, theo quan chức trên, là không đơn giản, vì với tốc độ tăng chi phí, tăng tỉ giá thì EVN dễ lỗ, số lỗ có thể lên tới trên 15.000 tỉ đồng năm 2011.
Ông Tô Quốc Trụ - giám đốc Trung tâm tư vấn năng lượng, Hiệp hội Năng lượng - cũng cho rằng việc tăng giá điện năm 2011 là cần thiết để đáp ứng nhiều mục đích, trong đó có chống thiếu điện về lâu dài, khuyến khích đổi mới công nghệ, tiết kiệm điện...
Ông Trụ cho biết Bộ Tài chính cũng đã có những phương án tăng giá, trong đó có đề xuất mức tăng khoảng 17%. Tuy nhiên, ông Trụ cho rằng nhiều khả năng Chính phủ sẽ quyết mức 18% theo đề xuất của Bộ Công thương vì đây là mức hợp lý hơn cả.
Biểu đồ mức tăng giá điện bình quân qua các năm - Đồ họa: Như Khanh
Chỉ nên tăng vừa phải
Ông Nguyễn Tôn Quyền, phó chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản, cho biết với mức giá điện tăng 18% sẽ tác động không nhỏ tới doanh nghiệp. Theo ông Quyền, giá điện tăng là cần thiết, tuy nhiên mức tăng 18-30% theo đề xuất của Bộ Công thương, ngay cả khi thực hiện ở mức thấp nhất cũng sẽ khiến doanh nghiệp phải chịu tác động nhiều vòng.
“Giá điện tăng, từ đó giá thép cũng tăng, giá nhân công tăng... Trong khi đó, ngành gỗ chúng tôi năm 2011 không thể tăng giá bán” - ông Quyền lo lắng. Mức tăng 18%, ông Quyền cho rằng gần gấp ba lần năm trước nên có yếu tố giật cục.
Còn mức tăng tối đa 40% theo đề nghị của EVN, ông Nguyễn Tôn Quyền khẳng định không thể chấp nhận được với rất nhiều doanh nghiệp và người dân. Ông Quyền đề nghị: “EVN cần tính toán tiết kiệm chi phí vì tiềm năng còn nhiều chứ hiện nay mọi thứ chi phí tăng, trong đó có cả tăng lương đổ hết vào doanh nghiệp, người dân”.
Bà Nguyễn Tuệ Anh - trưởng ban môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - cho biết việc tăng giá điện 18% năm 2011 chắc chắn tác động không nhỏ đến người dân, doanh nghiệp.
Nên chọn phương án thấp nhất có thể vì những doanh nghiệp lớn tăng giá điện không ảnh hưởng nhiều, với các doanh nghiệp nhỏ, dùng nhiều điện, tăng chi phí giá điện 18% trong khi không tăng được giá bán sản phẩm có thể khiến họ khó khăn, khó trả nợ, tác động cả đến người lao động và cả hệ thống ngân hàng...
“Tăng bao nhiêu cần có lộ trình, tăng từng bước. Vì cần có thời gian để đo phản ứng trên giá cả và đời sống người dân” - bà Tuệ Anh nói. EVN cần tiết kiệm hơn nữa
Với chi phí năm 2010 của EVN khoảng 130.000 tỉ đồng, theo bà Tuệ Anh, là rất lớn và tiềm năng tiết kiệm vẫn còn để chia sẻ bớt cơn sóng tăng giá với người dân. Ngoài ra, bà Tuệ Anh cho rằng với những người nghiên cứu, những lập luận nói EVN lỗ to, chi phí tăng cao... vẫn hơi khó hiểu. C
ác thông tin kiểu này cần có giải trình rõ ràng, như chi phí tăng thì tăng ở khâu nào, có hợp lý không; lỗ vì mua điện giá cao thì lợi do bán được điện giá cao thế nào (khi cắt điện luân phiên chủ yếu cắt điện giá rẻ ở nông thôn)... Vì vậy, cần phải có kiểm toán rõ ràng các thông số của EVN, chứ chỉ nói không như vậy khó thuyết phục.
Ông Hoàng Văn Tòng, phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên, chia sẻ: năm trước thép là một trong những mặt hàng bình ổn giá, nên bản thân ngành thép cũng có khó khăn chứ không chỉ ngành điện. Nên nếu giá điện tăng mạnh, giá thép cũng nhiều khả năng phải tăng vì “giá điện tăng thì cái kim sợi chỉ cũng tăng, nói gì đến thép”.
Theo ông Tòng, khi đã tính chuyện tăng giá điện thì chắc chắn phải có người chịu thiệt, đó là dân hay EVN, mức độ mỗi bên thế nào cần cân nhắc kỹ.
Với phương án của EVN cho rằng dù tăng giá 30% vẫn phải cắt cỡ 2 tỉ kWh điện giá cao, ông Tòng cho rằng không hiểu phương án này được xây dựng dựa trên lợi ích của bên nào, có cục bộ quá không? Nếu cắt điện, doanh nghiệp thép sẽ nhập phôi ngoại về làm, nếu tăng giá, doanh nghiệp cũng phải tăng giá để tồn tại, người chịu tác động cuối cùng là dân. Vì vậy, cơ quan nhà nước cần tính đúng, tính đủ tác động đến đời sống để chọn mức giá điện hợp lý, tránh tâm lý té nước theo mưa đã thường trực, hình thành làn sóng tăng giá.
Trước lập luận phải tăng giá điện để doanh nghiệp, người dân tiết kiệm điện, thay đổi công nghệ, Ông Hoàng Văn Tòng cho rằng đúng nhưng chỉ nói vậy chưa đủ. Doanh nghiệp chuẩn bị đầu tư thì có thể thay đổi, chứ vừa đầu tư xong, chưa khấu hao thì bảo đổi mới toàn bộ công nghệ cực khó. Bà Nguyễn Tuệ Anh cũng đồng tình quan điểm này khi cho rằng hiện người dân, doanh nghiệp nhỏ, tư nhân đang là đối tượng tiết kiệm nhất.
“Nếu chúng ta không giúp họ chuẩn bị một lộ trình đổi mới công nghệ, thay đổi sản phẩm mà cứ nói tăng giá, buộc họ phải thay công nghệ thì họ có thể phải phá sản trước khi đổi được công nghệ vì thiếu vốn, năng lực” - bà Tuệ Anh cho hay. Người dân trả thêm từ 5.000-140.000 đồng/tháng
Nếu Chính phủ quyết giá điện năm 2011 tăng 18% theo tính toán, tổng số tiền điện nền kinh tế sẽ phải trả thêm khoảng 19.000 tỉ đồng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sẽ tăng 0,54-0,72%. Trong đó, các ngành sản xuất sẽ phải chịu thêm chi phí gần 10.000 tỉ đồng, tăng giá thành từ 0,02-9,03%.
Các hộ nghèo có mức tiêu thụ điện 50 kWh/tháng trở xuống nếu giá điện tăng 18% thì số tiền phải trả tăng thêm hằng tháng khoảng 5.000 đồng, các hộ có mức tiêu thụ điện trung bình dưới 100 kWh/tháng sẽ trả thêm hơn 21.000 đồng/tháng. Hộ tiêu thụ đến 200 kWh/tháng sẽ trả thêm hơn 55.000 đồng/tháng. Các hộ sử dụng lượng điện ở mức 400 kWh/tháng sẽ phải trả thêm từ 100.000-140.000 đồng/tháng.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Các nhà phân tích cho rằng phá giá tiền đồng sẽ gia tăng lạm phát ở Việt Nam bên cạnh việc chỉ xuất hiện những rủi ro tiềm ẩn mới về khả năng khó kiểm soát giá cả ở quốc gia hiện đang là điểm nóng về lạm phát này
“Tháng 2/2011 sẽ không có đột biến tăng giá xảy ra. Chỉ số giá tăng khoảng 1,8-2%, phù hợp với quy luật vận động của những tháng có Tết Nguyên đán”, báo cáo phục vụ họp Tổ điều hành thị trường trong nước tháng 1/2011 của Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) dự báo.
Đường đi của giá cả - lạm phát năm 2011 của Việt Nam nhìn chung phức tạp và khó lường, do chịu hợp lực của nhiều nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp, tức thời hay trễ muộn ít nhiều do sự gia tăng không chỉ một lần các chi phí “đầu vào”.
Nếu giữa doanh nghiệp và ngân hàng không tìm được “tiếng nói chung”, không trở thành “bạn đồng hành” đúng nghĩa, thì điều đó không chỉ là nguy cơ cho riêng họ mà còn là thảm họa chung cho cả nền kinh tế.
Gạo là mặt hàng Việt Nam đã chủ động từ khâu sản xuất nguyên liệu, chế biến và xuất khẩu. Tuy nhiên độ rủi ro lại cao, bởi quy trình thu mua và vận chuyển lúa gạo hiện nay vẫn kế thừa hệ thống cũ, hiệu quả sử dụng vốn, kho bãi và vận chuyển thậm chí còn kém hơn so với trước...
Trong khi Đại hội Đảng XI họp bàn về chiến lược phát triển đất nước, nhiều chuyên gia Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm, Việt Nam cần làm gì để thành nước có thu nhập cao trong 10 năm tới.
“Tháng 2/2011 sẽ không có đột biến tăng giá, CPI tăng khoảng 1,8-2%”, báo cáo tình hình giá cả thị trường tháng 1 và dự báo tháng 2 của Cục Quản lý Giá cho hay.
Năm 2010 là năm vất vả của ngành ngân hàng và đường đi của giá cả-lạm phát năm 2010 Việt Nam "vừa quen lại vừa lạ". Câu hỏi đặt ra là: Thông điệp nào ẩn chứa đằng sau đó?
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.