1. Tiếp cận chiến lược kinh tế biển
Kinh tế biển của Việt Nam phát triển với hai lợi thế quan trọng.
Một là tiềm năng tự nhiên (lợi thế tĩnh) to lớn (bờ biển dài, diện tích lãnh hải thuộc chủ quyền rộng, khả năng tiếp cận dễ dàng đến các đại dương, có các nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có – thủy sản, dầu khí và nhiều loại khoáng sản khác, nhiều bãi biển đẹp, v.v.)(1).
Hai là vị trí địa - kinh tế và địa - chiến lược đặc biệt (nằm trên các tuyến hải hành và các luồng giao thương quốc tế chủ yếu của thế giới, nhất là trong thời đại bùng nổ phát triển của châu Á – Thái Bình dương)(2).
Tuy vậy, lâu nay, khi bàn đến lợi thế phát triển kinh tế biển của Việt Nam, sự chú tâm thường được dành cho loại lợi thế thứ nhất mặc dù loại lợi thế thứ hai đang ngày càng trở nên quan trọng do sự gia tăng nhanh chóng của quá trình toàn cầu hóa.
Trên thực tế, cách tư duy về lợi thế như vậy được phản ánh trong việc đầu tư cho nghiên cứu, cho việc phát triển năng lực và các lĩnh vực kinh tế biển cụ thể - tập trung cho các ngành khai thác tài nguyên biển - thủy sản, dầu khí, làm muối, v.v.- dưới dạng “thô”. Khai thác hàng hải, du lịch và cảng biển chưa phát triển, ở trình độ nhìn chung còn thấp. Nhiều loại tài nguyên biển quý báu khác, ẩn sâu trong lòng biển, dưới đáy đại dương, hoàn toàn chưa được khai thác, chưa nói đến những ngành “công nghiệp biển” dựa trên công nghệ cao.
Sự thiên lệch đó là kết quả tự nhiên, tất yếu của sự tiếp nối tư duy phát triển truyền thống, coi khai thác tài nguyên thô, dựa vào trình độ kỹ thuật, công nghệ thấp và những năng lực hạn chế là cách thức chủ đạo của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Với đặc trưng như vậy, cách tiếp cận phát triển kinh tế biển của Việt Nam hiện nay có hai thiếu sót lớn.
Một là xu hướng muốn vận dụng một cách đơn giản và dễ dãi tư duy phát triển nông nghiệp truyền thống – hay nói “riết róng” hơn – tư duy phát triển tiểu nông, gắn với “con trâu đi trước cái cày đi sau” - vào công cuộc phát triển kinh tế biển. Đó là cách thức khai thác biển theo lối “con cò lặn lội bờ sông”, “đánh bắt ven bờ”, không dám vươn ra biển khơi, không mang tư tưởng tìm kiếm và chinh phục đại dương. Về thực chất, đó là việc mang vác cách thức phát triển nông dân cổ truyền, làm ruộng trên cạn ra khai thác biển, chinh phục đại dương - một đối tượng khác căn bản về tính chất, về các điều kiện khai thác và mức độ rủi ro (phương thức, công cụ, gắn với những đòi hỏi về tri thức và công nghệ).
Hai là thiếu tư duy toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chưa rõ tầm nhìn toàn cầu và thời đại trong công cuộc phát triển kinh tế biển trong bối cảnh hiện đại, trong khi cả thế giới đang đồng loạt tiến ra biển, chiếm hữu không gian biển, khai thác biển ở tất cả các loại hình, cấp độ và với những công cụ và phương thức hiện đại chưa từng thấy.
Với cách tiếp cận biển truyền thống như vậy, trong điều kiện của thế giới hiện đại, thật khó kỳ vọng đạt được những kết quả mang tính đột phá trong nỗ lực chinh phục biển thông qua việc triển khai chiến lược kinh tế biển đầu tiên của Việt Nam, đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương Đảng 4 khóa X, năm 2007(3).
Để phát triển kinh tế biển, mở rộng một không gian phát triển mới, tăng cường một động lực phát triển hiện đại ở tầm chiến lược mạnh bậc nhất, Việt Nam cần có cách tiếp cận mới, khác căn bản cách tiếp cận phát triển kinh tế “đất liền” truyền thống(4).
Hướng ra biển, phát triển kinh tế biển một cách chiến lược – như Nghị quyết về Chiến lược phát triển kinh tế biển xác định, trở thành một nhu cầu bức bức bách, đồng thời, là một cơ hội lớn cho sự trỗi dậy mang tính bùng nổ của Việt Nam.
Với Chiến lược phát triển kinh tế biển đã được xây dựng, cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên WTO, thế giới đang chuyển sang thời đại toàn cầu hóa (tự do hóa) và công nghệ cao, khi phát triển kinh tế biển được mọi quốc gia coi là một trọng tâm chiến lược hàng đầu, chúng ta cần tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, trong đó, việc “nạp” kinh tế biển ở một tầm nhìn mới vào mô hình tăng trưởng mới là một nội dung quan trọng.
2. Hiện trạng kinh tế biển: nhận diện thực lực
Hiện nay, về nguyên tắc, Việt Nam đã mở cửa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhưng, đánh giá một cách thực chất, trong một thời gian dài, chúng ta mới chỉ chú trọng hướng mở cửa - lên núi bằng việc mở hàng loạt cửa khẩu và phát triển khu kinh tế cửa khẩu trên biên giới đất liền mà ít mở ra biển, qua các cảng biển.
Gần đây, mấy chục tỉnh sát biển đua nhau làm cảng biển, đã xây dựng gần một trăm cảng biển (xem bản đồ các cảng “chính”). Song động lực “vươn ra biển lớn” của phong trào rầm rộ này – rầm rộ đến mức đã trở thành “hội chứng” – thật sự không rõ ràng, bị chi phối bởi tư duy lợi ích dự án cục bộ thay vì một mục tiêu đua tranh phát triển lành mạnh và có tầm nhìn xa. Đó là bởi nền kinh tế vẫn theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên trên đất liền theo cách cũ, với công nghệ - kỹ thuật lạc hậu. Đến nay, mô hình đó đã “tận khai” năng lực “đất liền” của quốc gia.
Việt Nam đã hình thành bốn vùng kinh tế trọng điểm và hàng chục khu kinh tế dọc theo chiều dài đất nước. Tất cả đều hướng ra biển và có tiềm năng to lớn từ kinh tế biển. Nhưng việc tận dụng lợi thế và khai thác tiềm năng to lớn này còn xa mới đạt hiệu quả mong muốn. Như vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ hiện nay được xem là đang hình thành rõ nét nhất và cũng chứng minh được tiềm năng to lớn khi có tính ảnh hưởng và liên kết mang tính liên vùng với các hành lang kinh tế Việt Nam – Trung Quốc, nhất là sự bùng nổ về phát triển của một vùng rộng lớn ở Tây Nam Trung Quốc trong tương lai gần. Trong khi đó cửa ngõ chính hướng ra biển của khu vực bùng nổ này chính là Hải Phòng và cụm cảng của khu vực này. Rõ ràng đây là những điều chúng ta phải có sự dự báo từ sớm để có kế hoạch chuẩn bị và đón đầu. Tuy vậy, thực tế đang diễn ra trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ của chúng ta lại chưa cho thấy điều này: các yếu tố về lợi thế, cơ cấu, thể chế điều phối và liên kết vẫn chưa rõ. Đây chính là các nút thắt trong số nhiều nút thắt gây trở ngại phát triển cho Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Điều này cũng đúng với các Vùng Kinh tế trọng điểm và các Khu Kinh tế ven biển khác. |
Rõ ràng, Việt Nam không thể khai thác biển tốt nếu không khẳng định được sự hiện diện của mình trên đại dương với tư cách là một thực lực, tốt nhất là trong tư cách của một cường quốc biển. Mọi lời tuyên bố về chủ quyền chỉ mang lại lợi ích thực tế cho quốc gia khi nó gắn liền với thực lực và thông qua sự hiện diện sức mạnh quốc gia thực tế tại vùng có chủ quyền. Theo logic đó, để khẳng định chủ quyền biển thực sự, Việt Nam phải có các hạm tàu lớn và có các doanh nghiệp kinh tế biển mạnh. Muốn vậy, trong điều kiện hiện tại Việt Nam cần phát triển ngành vận tải biển (cảng và hàng hải). Phát triển ngành công nghiệp đóng tàu tuy không phải là điều kiện bắt buộc để phát triển ngành vận tải biển, song trong bối cảnh hiện đại, Việt Nam có thể làm điều đó một cách hiệu quả (nhưng không theo kiểu Vinashin). Đồng thời, cả hệ thống kinh tế “mặt tiền” – đô thị biển và du lịch biển (bờ, biển, đảo) – cũng phải phát triển mạnh. Nhưng để có sự hiện diện thực chất đó, chúng ta còn phải có nhiều thứ khác - nền khoa học và công nghệ biển tiên tiến, nguồn nhân lực tốt, các cảng biển tầm cỡ và các khu kinh tế biển mạnh, có sức cạnh tranh và hấp dẫn quốc tế mạnh. |
---
Tác giả: Trần Đình Thiên - Phó giáo sư, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam // Theo Tia Sáng
(1) Một số bằng chứng về tiềm năng kinh tế biển chủ yếu của Việt Nam: Bờ biển dài 3.260km, vùng biển chủ quyền rộng khoảng 1 triệu km2, trung bình 100 km2 đất liền có 1km bờ biển, cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới. Dọc biển có nhiều vịnh đẹp (Hạ Long, Vân Phong, Cam Ranh, Nha Trang…) và 2.779 đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 1.636 km2; có 90 cảng biển lớn nhỏ và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng, kể cả cảng trung chuyển quốc tế, 125 bãi biển có cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi biển đạt tiêu chuẩn quốc tế để phát triển du lịch biển. Ven biển có nhiều loại khoáng sản và vật liệu xây dựng. Tổng trữ lượng dầu khí dự báo địa chất của toàn thềm lục địa khoảng 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác 4 – 5 tỷ tấn; trữ lượng khí đồng hành 250 – 300 tỷ m3. Trữ lượng hải sản khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu phong phú, có giá trị kinh tế cao, chưa được khai thác đúng mức, chỉ mới đạt 60% mức có thể khai thác được hàng năm (1,5-2 triệu tấn). Có hơn 6 vạn héc ta ruộng muối biển.
Dân số vùng duyên hải chiếm khoảng 40% dân số cả nước.
(2) Biển Đông có diện tích 3.447.000 km2, một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, nối hai đại dương Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đây là con đường giao thương quốc tế chiến lược, có 5/10 tuyến đường hàng hải lớn nhất thế giới đi qua. Hàng năm, qua biển Đông vận chuyển khoảng 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung Đông và Đông Nam Á, khoảng 45% hàng xuất của Nhật, và 60% hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Vùng biển Việt Nam án ngữ trên con đường này.
Nhưng vị trí địa – kinh tế và địa - chiến lược tốt đồng nghĩa với tình trạng tranh chấp và xung đột luôn tiềm tàng. Đây là điều đã và đang được thực tế chứng minh.
(3) Kinh tế biển Việt Nam những năm đổi mới vừa qua đã tăng trưởng đáng kể về qui mô và thay đổi rõ rệt về ngành nghề, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP. Tuy nhiên nếu so sánh với một số nước có biển trong khu vực thì giá trị hoạt động của kinh tế biển Việt Nam chỉ bằng 24% của Trung Quốc, 14% của Hàn Quốc và 1% của Nhật Bản.
(4) Xin lưu ý rằng tại thời điểm hiện nay, ngay cả hiện thân cụ thể, sống động của cách tư duy phát triển đất liền – mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thô, lao động tiền lương thấp và năng suất thấp được áp dụng trong khoảng ¼ thế kỷ qua ở Việt Nam - cũng đang đối mặt với yêu cầu phải được cấp bách thay đổi bằng một mô hình tăng trưởng mới.
(5) Chiến lược kinh tế biển được thông qua tại Hội nghị Trung ương 4 khóa X là một chiến lược định hướng tổng thể. Nó xác định các mục tiêu lớn, phương hướng hành động chung nhưng chưa vạch ra được các chiến lược hành động cụ thể, khả thi để phát triển kinh tế biển.
(6) Tuy nhiên, lập luận này cũng gợi ý khuyết thiếu cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung, phát triển kinh tế biển nói riêng của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Theo đó, có thể thấy việc cân đối lại hai vế, hai yếu tố cấu trúc nền tảng nêu trên của quá trình phát triển kinh tế biển chính là định hướng xuyên suốt của chiến lược kinh tế biển của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com