Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Cây chè gắn kết đời sống xã hội và sự phát triển của Bảo Lộc

(Chủ tịch UBND thị xã Bảo Lộc Phạm Quang Tường, Trưởng ban tổ chức Lễ hội Văn hóa Trà tỉnh Lâm Đồng lần thứ II trả lời phỏng vấn với Báo Lâm Đồng)

Nói đến Bảo Lộc, không ai không  nghĩ đến một vùng đất hương thơm ngát và vị ngọt lắng đọng của cây chè đã tạo nên thương hiệu trà B’Lao cùng với cà phê, dâu tằm, đất đỏ Bazan  và khí hậu miền nhiệt đới, hương chè đã tạo nên cốt người xứ B’Lao khoan dung, tinh tế và đôn hậu.

* PV: Phải chăng cây chè đã gắn bó lâu đời với vùng đất này ?

* Ông Phạm Quang Tường: Từ những năm 30 của thế kỷ trước. Nhưng thời đó, cây chè chỉ có trong những đồn điền của người nước ngoài và những gia đình tư sản giàu vốn liếng. Đến năm 1985, cây chè và chế biến trà được tỉnh Lâm Đồng  xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Từ đó đến nay, Bảo Lộc luôn là trung tâm của ngành sản xuất trà của tỉnh với trên 9.200 ha chè  và hàng trăm cơ sở chế biến trà  từ  thủ công hộ cá thể đến những doanh nghiệp quy mô lớn có công nghệ chế biến hiện đại, sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu cao. Có một điều cũng cần được biết là, với khí hậu, thổ nhưỡng của vùng đất Bảo Lộc mà cây chè trồng ở đây không những mau cho thu hoạch, mà còn cho thu hoạch quanh năm, vì vậy, cho dù đời sống ở nhiều nơi có khó khăn, nhưng cuộc sống  của người trồng chè ở đây luôn được đảm bảo. Và ở nhiều vùng cây công nghiệp khác, nông dân có thể giàu lên nhờ cà phê hoặc có một thời là dâu tằm, còn ở Bảo Lộc,  cây chè không những giúp con ngườiï “phất “ lên, mà từ lâu đã tạo nên những danh tiếng như danh trà Đỗ Hữu, Quốc Thái, Thiên Hương, Kim Bảo… và những năm gần đây là Tâm Châu olong trà …

* PV:  Đã có ý kiến cho rằng, so với cà phê, dâu tằm và một số loại cây công nghiệp dài ngày khác, quy trình sản xuất nông nghiệp cũng như công nghệ chế biến sản phẩm trà ở Lâm Đồng nói chung và thị xã Bảo Lộc nói riêng đã có những tiếp cận với tiến bộ khoa học nhanh hơn?

* Ông Phạm Quang Tường: So với năm 1985, khi cây chè được tỉnh xác định là một trong những cây trồng chủ lực và ngành sản xuất trà là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, thì đến nay, tổng diện tích chè trồng tại thị xã Bảo Lộc tăng gần gấp 4 lần. Nếu như trước đây, gần như vườn chè Bảo Lộc được trồng bằng chè hạt và chủ yếu là  giống chè Shan hỗn hợp lẫn trung du lá lớn, trung du lá nhỏ chủ yếu trồng bằng hạt, thì  cuối những năm 90 của thế kỷ 20 trở lại đây, với những “công cuộc cách mạng” vườn chè, hàng ngàn ha chè cành được thay thế diện tích chè hạt già cỗi với nhiều loại giống mới không chỉ đạt năng suất cao (TB14, LĐ97) mà còn tạo ra sản phẩm chè búp tươi chất lượng cao như Kim tuyên, Tứ Quý, Ngọc Thúy… Nếu như những năm đầu đất nước được giải phóng, toàn Bảo Lộc chỉ có 6 nhà máy chế biến trà thiết bị thô sơ và một số cơ sở chế biến thủ công, bình quân mỗi năm sản xuất được vài trăm tấn trà, trong đó chủ yếu là trà đen… thì giờ đây tại thị xã  đã có hàng trăm cơ sở chế biến trà với sản lượng chế biến bình quân mỗi năm khoảng 26.000 tấn trà thành phẩm, giá trị kinh tế thu nhập từ ngành sản xuất chè đạt trên 157 tỷ đồng/năm, trong đó có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất trà với công nghệ chế biến hiện đại đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Riêng Công ty trà Tâm Châu, một trong những công ty có năng lực sản xuất trà lớn của thị xã Bảo Lộc, với trên 200 ha chè, chủ yếu được canh tác theo tiêu chuẩn chè sạch, 2 cơ sở chế biến trà công nghệ hiện đại, không kể nội tiêu, hàng năm xuất khẩu bình quân được trên 100 tấn trà olong và trà xanh chủ yếu qua thị trường Nhật Bản, riêng năm 2008 này dự kiến xuất khẩu được khoảng 200 tấn; Giải quyết công ăn việc làm cho gần 1000 lao động, trong đó có 500 lao động là đồng bào dân tộc thiểu số.

* PV: Hướng tới phát triển bền vững, kế hoạch cơ bản của ngành sản xuất, chế biến trà của thị xã sẽ như thế nào, thưa ông?

* Ông Phạm Quang Tường: Với trên 26.000 ha chè ở khu vực Bảo Lộc, Bảo Lâm và Di Linh, cuộc sống của khoảng 130.000 lao động (chiếm trên 10 % dân số của tỉnh), trong đó thị xã Bảo Lộc có khoảng 45.000 lao động  phụ thuộc vào cây chè. Để bảo đảm  và ngày một nâng cao cuộc sống cho người trồng chè thì phải hướng tới việc xây dựng những vùng chè phát triển bền vững. Đây là vấn đề đòi hỏi các nhà hoạch định chiến lược của tỉnh phải có những cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển một cách phù hợp mang tính đột phá ngay từ khâu quản lý giống đến kỹ thuật canh tác, trong đó nên chăng  quy hoạch  và đầu tư xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu chè công nghệ cao, sản xuất vùng chè sạch, chè an toàn  đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm quốc tế  (GAP, HACCP) nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tiêu dùngï nội địa và thị trường xuất khẩu. Đối với lĩnh vực chế biến, thực hiện quy hoạch nhà máy chế biến gắn liền với vùng nguyên liệu, áp dụng các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp chế biến đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến các sản phẩm tinh chế, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, phát triển sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường xuất khẩu, áp dụng nghiêm ngặt các quy trình quản lý chất lượng sản phẩm, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu sản phẩm, thương hiệu uy tín của doanh nghiệp và giữ vững thương hiệu sản phẩm hàng hóa nói riêng và thương hiệu Trà B’Lao nói chung. Đẩy mạnh công tác  xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, tham gia hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế, tích cực quảng bá hình ảnh sản phẩm bằng nhiều hình thức, trong đó có việc  chủ động tổ chức lễ hội quảng bá hình ảnh và sản phẩm trà theo định kỳ 2 năm 1 lần.

(Theo báo Lâm Đồng )

  • Thực trạng và hướng phát triển vùng nguyên liệu chè Lâm Đồng
  • Cây chè ngoại trên đất nam Tây Nguyên
  • Ký ức trà trên độ cao 1.600m
  • Blao - “Thủ đô” cây chè
  • HaiYih với những “thương hiệu Vàng”
  • Thương hiệu “Cheviet” nhìn từ B’Lao
  • Trăn trở cùng cây chè
  • Trong dòng chảy chè Việt
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi