Những người thương nhớ một Đà Lạt xưa vẫn thường tìm về Cầu Đất để được đắm mình trong không gian còn váng vất “mùi vị” của thuở “thiên đường” này được đánh thức. Ở nơi ấy, bây giờ vẫn còn sương giăng 2 buổi sớm chiều, vẫn còn bạt ngàn thông phủ che những căn nhà gỗ bình yên nằm khép mình trên những triền đồi. Ở nơi ấy, hoa dại vẫn mọc tràn lên cỏ dại sau mỗi cơn mưa đầy khát khao và rực rỡ, vẫn còn những thiếu nữ má ửng hồng dịu dàng mang vẻ đẹp trinh nguyên không lẫn vào đâu được. Phía sau những giá trị ấy, ở Cầu Đất bây giờ vẫn còn những đồng chè đã cắm đất gần trọn một thế kỷ, những gốc chè đã cùng đi suốt một chiều dài thăng trầm của Đà Lạt. Cây chè cũng đã trở thành chứng nhân lịch sử của biết bao thế hệ nông phu… Cây chè “xe duyên” cho nhiều người nên vợ nên chồng, sinh con đẻ cháu, mua nhà tậu xe và cũng chứng kiến không ít người nay đã “trở về với đất”. Giờ đây, những gốc chè cổ thụ có gần trăm năm tuổi kia vẫn còn chứng kiến bao sự long đong của những phận người một đời bám chặt với gốc chè…
* Đã có một làng chè Trường Xuân
Năm 1893, ngay sau khi Yersin phát hiện ra Đà Lạt, Toàn quyền Paul Doumer đã cho các đoàn thám hiểm các vùng phụ cận, đặc biệt là theo hướng Đông
Năm 1899, người Pháp khám phá ra vùng Cầu Đất, Di Linh, B’Lao (Bảo Lộc ngày nay) đều là những vùng đất màu mỡ, khí hậu ôn hòa… rất phù hợp cho cây chè và cây cà phê sinh trưởng, phát triển. Tuy nhiên cũng phải đợi gần 8 năm sau, khi những ông chủ người Pháp thành lập nên Sở Trà Cầu Đất (Entre Rays) vào năm 1927 (với tổng diện tích trồng chè lên đến hơn 600ha) thì những cây chè giống Shan đầu tiên mới được gieo hạt và nẩy mầm trên vùng đất này - một thời gian sau đó cây chè “di cư” xuống Di Linh và nhanh chóng phát triển nhanh ở vùng B’Lao. Để xây dựng Sở Trà Cầu Đất, trước đó nhiều năm, người Pháp đã về vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… chiêu mộ hàng trăm nông phu (đều là những lực điền khỏe mạnh) lên khai khẩn vùng đất này để lập nên đồn điền chè. Từ đây, bên cạnh việc đoàn kết để giúp đỡ nhau mỗi khi ốm đau hoạn nạn, để chống lại thú dữ cũng như sự gia tăng dân số (tăng cơ học), những láng trại ngày đầu không thể đáp ứng được nhu cầu của nông phu, nhất là khi nhiều người đã có gia đình nên và việc thành lập làng trở nên bức thiết. Đi đầu trong việc lập làng thời bấy giờ có 11 vị tiền hiền mà trong đó có thầy giáo Trần Mạnh Trung, người có uy tín trong vùng đã xây dựng nên làng Trường Xuân - ngôi làng đầu tiên ở Xuân Trường. Tuy chưa xác minh được chính xác thời gian, nhưng theo các cứ liệu lịch sử như bản đồ cấp đất cho Sở trà và làng Trường Xuân do người Pháp cấp (năm 1939), sắc phong của vua Khải Định (1925) cấp cho làng Trường Xuân (nay còn lưu giữ tại đình làng)… thì chí ít làng chè Trường Xuân phải được thành lập trước khi có Sở trà nhiều năm.
Một số cụ già ở đây cho biết, những năm đầu thập niên 20 thế kỷ trước, tại Cầu Đất đã có một lò rèn khá nổi tiếng của ông thợ Tam (đã mất). Lò rèn này chủ yếu chỉ rèn các loại dao, rựa, cuốc, xẻng để phục vụ khai khẩn đất hoang thành lập đồn điền chè. Đến năm 1930, khi ga xe lửa Trạm Hành (Arbre Broyé) - Cầu Đất (Entre Rays) hoàn thành thì các thiết bị máy móc mới được vận chuyển bằng xe lửa lên để xây dựng nhà máy chế biến chè cầu đất, còn trước đó hoàn toàn đều dựa vào sức lực của các nông phu. Đây cũng là thời kỳ cây chè hạt đã cắm rễ và phát triển tốt trên vùng đất này, cùng thời điểm nhà máy chế biến chè Cầu Đất cũng đã hoàn thành đưa vào hoạt động (năm 1930), và những lá chè đầu tiên với bao công sức, mồ hôi, nước mắt và thấm đẫm cả máu của những phu trà mới được đưa vào chế biến bằng máy. Thế nhưng, lúc này, chè là một loại hàng hóa xa xỉ nên người Pháp chỉ dành để đưa về chính quốc, xuất khẩu sang Anh và một số nước châu Âu, một phần nhỏ dành cho các quan chức, thương gia người Pháp là chính. Còn phu trà có chăng cũng chỉ được nếm thử chứ không dám nghỉ tới loại sản phẩm xa xỉ này. Để chống lại cái lạnh, phu trà từ sớm đã biết mót những lá chè già phơi khô mang bỏ vào ấm nấu, hay dùng lá chè tươi ủ nóng bằng nước sôi để uống như kiểu uống của người miền Trung. Có lẽ cũng chính vì thế, ngày nay, nhiều người Đà Lạt vẫn còn giữ được cách uống chè xanh bằng cách ủ trong bình nóng rất thú vị.
* Sự thăng trầm của người trồng chè
Theo tài liệu còn lưu trữ tại Công ty Cổ phần chè Cầu Đất - Đà Lạt (Sở trà Cầu đất trước đây), năm 1927 - khi thành lập Sở Trà Cầu Đất, số lượng phu trà đã lên đến con số hơn 1.000 người. Một số cụ già trước đây làm phu ở Sở trà cho biết: Hằng ngày phải làm việc từ sáng sớm đến tối mịt mới được nghỉ, nhưng cơm nước phải tự lo. Đầu ngày, cai trà gõ kẻng điểm danh trước khi bắt đầu cho công việc của một ngày hái chè, sấy chè. Người nào nghỉ việc không lý do sẽ bị thông báo cho chủ các cửa hàng thực phẩm - người Pháp quản lý, sẽ không bán hàng cho gia đình có người nghỉ việc vô cớ vào ngày hôm đó, nên đời sống của phu chè rất cơ cực.
Đến giai đoạn 1960-1975, trước khi người Pháp về nước đã nhượng lại Sở Trà cho các ông chủ người Hoa như Huỳnh Như Anh, Ngô Như Tân… quản lý khai thác. Tuy nhiên, sau đó, do làm ăn thua lỗ nên những ông chủ này lần lượt bỏ đi; còn công nhân thì chỉ còn biết bám vào cây chè để mưu sinh. Đây cũng là thời điểm đời sống của người trồng chè bị rơi vào thế khốn cùng, nhưng mọi người vẫn cố bám trụ, rất hiếm người bỏ đi tìm vùng đất mới. Nhiều người mỗi lần sinh con, đẻ cháu đều khắc dấu lên cây chè để nhớ, như gia đình cụ Đừng (Xuân Trường). Không chỉ vậy, cả vùng Cầu Đất này bao đời qua từ chuyện sinh đến chuyện tử cũng đều có mối liên hệ mật thiết với cây chè. Cây chè mang lại bát cơm, giúp tăng cường sức khỏe, chè giúp đề kháng bệnh tật, chè dùng cho phụ nữ uống khi sinh… Những cư dân ba bốn đời sống bằng nghề trồng chè ở đây thổ lộ: Nghề trồng chè không giúp họ giàu lên, nhưng cũng nhờ có nó mà người dân Xuân Trường mới lo cho con cháu ăn học tới nơi tới chốn, có nhà cửa đàng hoàng. Cây chè cũng đã lưu giữ rất nhiều kỷ niệm của người trồng chè, từ những cuộc đấu tranh đòi tiền lương, giảm giờ làm của công nhân Sở trà và cả cơm áo, gạo tiền trong công cuộc xóa đói giảm nghèo hôm nay ở Xuân Trường - Đà Lạt.
* Lời tri ân cho vùng đất Trà
Sở Trà Cầu Đất năm xưa, sau ngày giải phóng được giao về cho công ty Chè Lâm Đồng quản lý (nhưng hoạt động không mấy hiệu quả), từ năm 2005 chính thức có tên mới là Công ty cổ phần Chè Cầu Đất. Hiện nay, Công ty vẫn chủ yếu chế biến sản phẩm chè đen OTD, một thương hiệu cũ đã được tạo lập tuy nhiên năng suất không cao, tổng sản lượng chè chỉ đạt khoảng trên dưới 300 tấn/năm và chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, một phần nhỏ xuất khẩu thông qua các đối tác trong nước. Hơn 80 năm đã qua, nhưng khung cảnh xưa vẫn chẳng có nhiều đổi thay, ngoài những đồng trà Olong, Tứ Quý, Kim Tuyên, Shan tuyết được trồng mới… vẫn con đường cũ, cổng chào cũ và vóc dáng cũ của nhà máy. Vết hằn thời gian đã in đậm trên những khung thép, bậc thang lên xuống và cả một phần công nghệ chế biến của thuở khai sinh nhà máy. Những chiếc máy vò, mấy sấy do hãng
Với độ cao trên 1.600 m so với mực nước biển, nhiệt độ trung bình là 180C, nên khí hậu và thổ nhưỡng ở Cầu Đất rất thích hợp cho cây chè. Nhờ vậy, hàm lượng chất kết tinh trong cây chè rất cao, hương vị của chè đậm đà hơn những vùng khác. Có lẽ vì điều này, nên trong những năm vừa qua, đã có nhiều công ty liên doanh với nước ngoài như HaYih, Funseng… cũng đã chọn nơi đây làm điểm đến để nuôi trồng và chế biến trà. Cũng đã có nhiều hơn những khu dân cư, những con dốc ngày nào giờ đã tấp nập mang dáng dấp của phố thị. Đời sống của người dân trong vùng cũng đã có nhiều thay đổi, nhà cao tầng, biệt thự… dần thay thế cho những căn nhà gỗ, nhịp sống hiện đại làm mất dần đi vẻ trầm lặng của điền trang thuở nào, dù ở thẳm sâu trong nó vẫn còn ẩn hiện những dấu vết xưa.
Ở khu mộ linh, nơi chôn cất những công nhân trồng trà năm xưa (nay đã thôi không cho an táng), thi thoảng người ta vẫn thấy một bà cụ già xuất hiện, mỏi gối bước chậm chạp qua từng ngôi mộ, dường như bà đến để thăm lại cố nhân. Bà cụ ấy, tên là Phan Thị Đừng, thuộc thế hệ công nhân thứ 2 của nhà máy… Khách lạ đến thăm nhà máy thường thấy trên mỗi tấm pano đều có hình ảnh của một cô thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp đứng bên máy sàng chè, người thiếu nữ ấy giờ đã xấp xỉ tuổi 80. Từ Quảng Ngãi bà vào Cầu Đất cùng cha mẹ khi chỉ mới tròn 6 tuổi, 10 năm sau bà đã trở thành công nhân của Sở Trà; cha mẹ, rồi bà và bây giờ là con cái, dâu rể đều làm tại nhà máy này dù nó đã thay tên đổi họ nhiều lần. Bà nói với chúng tôi rằng: “Vùng trà này gắn với tôi cả một đời người, từ những ngày làm phu sở trà đến công nhân của nhà máy dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, từng gốc cây ngọn cỏ đến tiếng máy vò, máy sàng luôn ám ảnh trong tâm thức tôi”. Có lẽ bà đúng, bởi dù sao mảnh đất này đã gắn với bà như một định mệnh, gắn với vui buồn một kiếp người, gắn với sự sinh tồn, no đói và cả một thế hệ con cháu đã sinh ra và trưởng thành từ những gốc chè ngọt đắng kia…
Gần trọn một thế kỷ, cây chè trên vùng Xuân Trường-Cầu Đất như hiện sinh cho sức sống kỳ diệu của vùng đất này, cũng như chứng kiến bao thăng trầm của đất “Hoàng triều cương thổ”. Gần trọn một thế kỷ, những gốc chè vẫn khát khao sống qua thời gian, chứng kiến sự sinh tồn của nhiều thế hệ, bởi dù thế nào đi nữa chúng cũng đã trở thành một phần máu thịt của mảnh đất này.
(Theo báp Lâm Đồng )
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com