Là những nông dân tiêu biểu cấp tỉnh, đã có nhiều thành tích trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng chè, thế nhưng, họ vẫn luôn mang trong mình những trăn trở cùng cây chè, đó là làm sao để có thể sản xuất được chè sạch - an toàn, làm sao để tìm được đầu ra ổn định cho sản phẩm chè ….
Đến thăm gia đình anh Ngô Xuân
Anh Nam - chị Liên vào Lâm Đồng lập nghiệp từ năm 1975, ngay từ đầu anh chị đã xác định cây chè chính là “cây ruột” mà anh chị sẽ trồng. Bởi vì cây chè không giống như cà phê, có thể thu hoạch hàng tháng để trang trải cuộc sống gia đình hàng ngày và lấy ngắn nuôi dài là trồng thêm cây cà phê. Chính vì vậy, ban đầu chưa có đất anh chị trồng rau trên mảnh đất ít ỏi gần nhà, sau đó, anh chị hợp đồng thuê đất trong thời gian 50 năm của nông trường Minh Rồng và bắt đầu bén duyên với cây chè. Trong 4 ha đất thuê của nông trường, anh chị trồng 1ha chè hạt, 1 ha chè cành và 2 ha chè lai LD 97. Đến nay, đã hơn 10 năm trồng chè, anh chị cảm thấy yêu mến và say mê tìm hiểu về kỹ thuật trồng và chăm sóc loại cây này. Cũng vì lẽ đó mà vườn chè của anh chị lúc nào cũng xanh tốt hơn vườn bên cạnh và năng suất, chất lượng cũng cao hơn hẳn. Chị Liên cho biết: “nhờ vào 4 ha chè mà tôi có thể vun vén cho gia đình và lo cho 2 đứa con ăn học. Cũng nhờ nó mà nhà tôi có thể xây mới và sắm sửa được máy cày, máy kéo, máy phun thuốc… để thay thế sức lao động. Làm chè cho nông trường tuy có bị ràng buộc nhiều thứ nhưng cái được nhất là không cần bỏ vốn nhiều và có điều kiện tiếp cận với những kỹ thuật chăm sóc mới”.
Điều khiến anh chị còn băn khoăn là nông dân mình còn thiếu trầm trọng kiến thức và kỹ thuật chăm sóc cây chè. Họ cứ chăm sóc vườn chè theo cách truyền thống nên chất lượng chè không đảm bảo. Bên cạnh đó, đối với những hộ nông dân đã áp dụng sản xuất chè theo hướng an toàn thì sản phẩm của họ vẫn chưa được đánh giá đúng mức nên giá trị kinh tế vẫn không được tính thêm.
Khi được hỏi về Lễ hội văn hóa trà, chị Liên rất hồ hởi: “bản thân tôi rất vui vì có lễ hội trà này. Từ trước đến nay bất cứ vùng miền nào có đặc sản gì thì tổ chức lễ hội đó nhưng mãi đến giờ Bảo Lộc mới tổ chức lễ hội trà – cây trồng đặc sản của địa phương. Hy vọng khi tham gia lễ hội tôi sẽ biết thêm nhiều giống chè mới và kỹ thuật trồng chè hay để về áp dụng cải tạo 1 ha chè hạt hiện tại”.
Còn đối với vợ chồng anh Dương Xuân Vinh - chị Phạm Thị Thu Huyền (phường Lộc Sơn - Bảo Lộc) thì có nỗi lo khác khi bước chân vào trồng chè, đó là làm sao để có thể tìm được đầu ra ổn định cho sản phẩm chè.
Từ năm 1987, anh chị vào Lộc Quảng (Bảo Lâm) nhận 20 ha đất hoang để làm kinh tế mới. Cũng đi với anh chị cũng có rất nhiều người dân Bảo Lộc nhưng do lúc đó đường sá đi lại khó khăn nên nhiều người đã bỏ đất không làm nữa. Riêng anh chị thì cứ kiên trì bám đất, bám rừng cho đến ngày nay. Ban đầu, anh chị trồng cà phê và 5-6 năm trở lại đây anh chị bắt đầu trồng chè chất lượng cao TB 27, 29, Tứ quý. Hiện tại, ngoài 1,5 ha đất rừng tự nhiên, còn lại thì anh chị trồng một nửa chè và một nửa cà phê. Với gần 10 ha chè, mỗi lứa (khoảng 45 ngày) anh chị thu được khoảng vài trăm triệu. Anh Vinh cho biết: nếu so với cà phê thì chè cho giá trị cao hơn hẳn, tuy nhiên, vốn để đầu từ trồng chè này khá cao, khoảng 100 triệu đồng/ha bao gồm cả giống và hệ thống phun tưới tự động. Chè trồng khoảng 1 năm là đã bắt đầu cho thu hoạch, khoảng 3 năm thì năng suất đạt cao (3,5 tấn/ha) và đây là giai đoạn có thể thu hồi vốn đầu tư.
Hiện tại, mỗi lứa thu hoạch chè anh chị phải thuê gần 200 nhân công, đa số là người dân tộc thiểu số ở các buôn Lộc Tân, Minh Rồng. Chị Huyền cho biết: trồng chè ô long không khó nhưng cần phải tuân theo một quy trình sản xuất nghiêm ngặt. Chị đã từng tham gia lớp IBM để về áp dụng vào chăm sóc vườn chè của gia đình.
Điều lo lắng nhất của anh chị hiện nay là đầu ra cho sản phẩm. Mặc dù hiện tại gia đình chị đang bán trà cho một công ty Đài Loan, tuy vậy tính ổn định không cao và thường bị ép giá và tỷ lệ trừ phần trăm khá cao. Bản thân anh Vinh đã nhiều lần đi nước ngoài để tìm hiểu về thị trường với mong muốn một ngày nào đó mình có thể sản xuất chè để xuất khẩu. Anh tâm sự: “với diện tích trồng chè lớn như chúng tôi thì việc bán sản phẩm cũng đơn giản và được giá, khoảng 18 ngàn/kg vì các nhà máy tin tưởng vào chất lượng sản phẩm. Còn đối với những hộ trồng nhỏ lẻ, do nhà máy ngại kiểm định chất lượng nên thường bị mất giá. Do đó, điều cần nhất của chúng tôi hiện nay là khâu tiếp thị sản phẩm và nâng cao chất lượng chè để sản phẩm chè Việt có thể xuất khẩu nhiều hơn, từ đó nâng cao mức sống của người nông dân”.
(Theo báo Lâm Đồng )
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com