Sáng 3/11, các đại biểu thảo luận ở hội trường về tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2010; dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2011.
Trong phiên thảo luận, các đại biểu đánh giá cao nỗ lực tăng thu và giảm bội chi của Chính phủ trong năm tài khóa 2010. Các đại biểu chung đề nghị, Chính phủ cần duy trì mức bội chi năm 2010 ở mức 5% hoặc thấp hơn. Trước mắt, chuyển một phần thu từ năm 2010 sang năm 2011 để giảm bội chi, trong đó ưu tiên tăng chi cho an sinh xã hội, giáo dục, y tế...
Bên cạnh đó, nhiều đại biểu cho rằng, Chính phủ cũng cần nghiêm túc xem xét, đánh giá lại việc vượt thu, liệu có phải do lập dự toán không chính xác nên năm nào cũng vượt thu hay không.
Đại biểu Nguyễn Đình Xuân (Tây Ninh) cho rằng, Quốc hội đã đặt ra nhiều chương trình mục tiêu, tiêu chí hoàn thành nhưng để thành công thì ngoài việc thừa hành tốt còn cần chi tiêu tốt.
“Bội chi ngân sách nên càng thấp càng tốt”, đại biểu Xuân nói.
Theo đại biểu Xuân, giữa dự toán thu và chi của Chính phủ năm nào cũng vênh, năm nào cũng thu vượt ít nhất là 10%. Nếu như vậy thì không cần giảm chi thì đã giảm bội chi và khi số thu được đưa vào chi thì lại tạo ra nghịch lý là vừa bội thu, vừa bội chi. Mặt khác, vì các địa phương muốn đạt mục tiêu tăng trưởng cao nên thường đề xuất dự toán rất cao, gây áp lực thêm cho ngân sách trung ương.
“Theo tôi, chúng ta nên đẩy kế hoạch phê duyệt dự toán ngân sách lên sớm hơn, từ tháng 6 hàng năm”, đại biểu Xuân đề nghị.
Cùng quan điểm, đại biểu Đặng Như Lợi (Cà Mau) cho rằng, 10 năm vừa qua, vượt thu và vượt chi đều rất lớn so với dự toán, như vậy là “không ổn”, phải xem lại dự toán thu-chi cho sát hơn.
“Chính phủ thu ngân sách lúc nào cũng vượt dự toán, trong khi dự báo GDP thì lại rất sát”, đại biểu Lợi nói.
Từ đó, đại biểu Lợi đề nghị lập lại dự toán thu của năm 2011 để có một ngân sách tốt hơn.
Đại biểu Phạm Phương Thảo (TP. Hồ Chí Minh) đề xuất, để tạo sự cân đối trong thu-chi, năm 2011, Chính phủ nên thực hiện thu-chi với tinh thần tích cực thu, tập trung tiết kiệm, chi tập trung cho những nhiệm vụ trọng tâm, công trình trọng điểm, không dàn trải…
Đại biểu Thảo cũng đề nghị, TƯ cần tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách, các thủ tục hành chính cho các địa phương trong khâu thu-chi ngân sách, bởi hiện vẫn còn những văn bản gây phiền hà, bất cập với cả người dân và cơ quan thực hiện.
Quan tâm đến nợ công, đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang) cho rằng, mức nợ công của Chính phủ đang tăng cao, mức an toàn 50% là do Chính phủ tự đặt ra nên không thể tự cho đó là ngưỡng an toàn.
Để giảm bớt áp lực nợ, đại biểu Tuyết đề nghị Chính phủ cần nhanh chóng cơ cấu lại các khoản chi, chấn chỉnh hoạt động đầu tư theo hướng hiệu quả, chất lượng, chọn các dự án mang lại hiệu quả, chú trọng đầu tư cho giao thông nông thôn. Đồng thời, giảm bội chi ngân sách 2011 còn 5%, trước mắt, chuyển một phần khoản thu từ năm 2010 sang năm 2011 để giảm áp lực bội chi.
Nhất trí với mức bội chi năm 2011 là 5% hoặc thấp hơn, đại biểu Nguyễn Văn Phúc (Bình Thuận) có thêm đề nghị trong năm 2011, Chính phủ nên tăng dự phòng ngân sách để khắc phục hậu quả của lũ lụt và thiên tai có thể xảy ra.
Chung đề nghị với đại biểu Tuyết, đại biểu Nguyễn Đăng Vang (Bình Định) đề nghị thêm, một phần nguồn thu chuyển từ năm 2010 sang năm 2011 nên dành để đẩy mạnh việc trồng rừng, nhằm giữ nước, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tiếp thu ý kiến các đại biểu, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh cho biết, việc thu vượt, thu không sát dự toán năm 2010 là do tăng thu từ sản xuất kinh doanh (xuất phát từ giá, thuế suất, mà điểm này dự báo rất khó khăn); đất đai (tăng cường đấu giá, giao dự án sát với giá thị trường để chống thất thoát nên các địa phương tăng khoản này); thuế xuất nhập khẩu (do kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, chủ động điều chỉnh thuế suất một số mặt hàng để hạn chế nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu, giá cả thế giới biến động). Mặt khác, do năm 2009, thực hiện chính sách giãn thuế, các khoản giãn này thu vào quý I, II năm 2010 và có một số khoản thu rải rác nên Quý I, II tăng khá hơn.
“Nếu tính sát được thì Chính phủ cũng đã tính sát, chứ không phải đưa dự toán thấp để dự phòng”, Bộ trưởng nói.
Về bội chi và nợ công, Bộ trưởng cho biết, đều bắt nguồn từ nguồn vay. Bộ trưởng đồng tình nếu cân đối ngân sách tốt, không phải đi vay là tốt nhất, vay càng ít càng tốt, bội chi càng ít càng tốt. Tuy nhiên, nhu cầu chi của đất nước rất lớn, nhất là chi cho hạ tầng kinh tế xã hội, an sinh xã hội, nên nếu giảm bội chi thì phải xem xét tăng thu hoặc giảm đầu tư.
“Hiện bội chi là không phát hành mà đi vay, chỉ có trái phiếu Chính phủ là không tính vào bội chi. Còn vốn ODA đã nằm trong bội chi”, Bộ trưởng cho biết.
Về nợ công và nợ Chính phủ, Bộ trưởng cho biết, số nợ mà Chính phủ báo cáo Quốc hội là đã tính theo tỷ giá hiện hành. Hiện các khoản nợ đều được trả đầy đủ.
“Chúng tôi đồng tình vay về phải quản lý chặt, làm ăn hiệu quả, dự án phải làm ra lãi để trả nợ. Nếu làm như vậy thì cũng nên vay ở mức độ nhất định, đảm bảo an toàn tài chính”, Bộ trưởng nói.
Khi dư âm của cuộc “bỏ phiếu kép” tại Quốc hội khóa 13 vừa qua chưa kịp lắng thì việc lấy phiếu tín nhiệm của các địa phương đã lại thành tâm điểm chú ý của dư luận ngay từ đầu tháng 7 nắng nóng này.
Sự ảm đạm của nền kinh tế khiến cho những hạn chế, bất cập của giáo dục, y tế càng bị khoét sâu hơn, đưa các lĩnh vực này “lên ngôi” về mức độ không hài lòng của người dân cũng như của đại biểu Quốc hội.
Với 91,37% đại biểu Quốc hội tán thành, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng đã được thông qua chiều 19/6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014, trừ quy định về một số ưu đãi thuế với nhà ở.
“Lãng phí vô tội vạ, có phải chăng do năng lực cán bộ, do dễ dãi thiếu trách nhiệm hay do lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm? Cần làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm”, Ủy viên Thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, bà Nguyễn Thị Khá nêu quan điểm.
Một trong những nội dung quan trọng nhất trong phần trả lời chất vấn của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Quốc hội chính là về việc xử lý các sai phạm tại Vinashin và Vinalines.
Hôm nay (22/11/2010), Quốc hội bắt đầu phiên chất vấn và trả lời chất vấn. Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng là thành viên Chính phủ đầu tiên trả lời chất vấn trước Quốc hội.
Nhiều đại biểu tán thành quy định của dự thảo Luật Tố cáo khi cho rằng, nên mở rộng quyền được tố cáo của công dân, vì thế cần chấp nhận hình thức tố cáo bằng điện thoại, thư điện tử, fax khi người tố cáo nêu đầy đủ danh tính.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu : Khiếu nại đông người là vấn đề thực tế, do đó cần có phương án giải quyết, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng như hạn chế việc lợi dụng gây rối, kích động.
Phát ngôn của mỗi người trước công chúng và của từng phương tiện truyền thông càng cần phải được thể hiện sao cho đúng với trách nhiệm và đạo đức công vụ được giao, đúng với trách nhiệm công dân và cái tâm trong sáng của mỗi người trong sự nghiệp chung của mọi người, của đất nước.
Việc xây dựng Luật Tố cáo cần đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản là bảo đảm cho công dân có thể thực hiện quyền tố cáo một cách đơn giản, thuận tiện và cơ chế giải quyết tố cáo công khai, minh bạch, hiệu quả.
Đa số các đại biểu Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính (TTHC), coi đây là khâu đột phá trong cải cách thể chế, bước đầu xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, lành mạnh, hiện đại.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.