Tạp chí Times đã bình chọn khoa học người Anh Tim Berner-Lee là một trong 100 người quan trọng nhất của thế kỷ XX. Bởi vì chính ông là người đã góp phần “làm phẳng” thế giới khi phát triển mạng toàn cầu (World Wide Web) - một hệ thống tạo ra, sắp xếp và liên kết các tài liệu để có thể dễ dàng truy nhập qua Internet. Và ngày 06/8/1991 - ngày mà địa chỉ web đầu tiên http://info.cern.ch đã được Berner-Lee tạo ra và đưa vào hoạt động - đánh dấu mốc quan trọng của quá trình “làm phẳng” thế giới.
Quả thật, mạng toàn cầu đã tạo cơ hội cho con người sức mạnh thông tin và hợp tác. Con người bình đẳng gần như tuyệt đối trong tiếp cận và phổ biến thông tin. Mỗi cá nhân có quyền làm những gì mà họ cho là tốt nhất với những thông tin mà họ có. Hay nói cách khác, với mạng toàn cầu, con người có thêm sức mạnh để tìm kiếm thông tin. Hơn nữa, sự kết nối, hợp tác không biên giới trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Điều đó tạo triển vọng cho những cộng đồng toàn cầu.
Một nghiên cứu mới của Hội đồng Hiệp sỹ (Mỹ), một nhóm gồm 17 chuyên gia về chính sách công, Internet và tin tức cho rằng: Thời đại kỹ thuật số đang tạo ra một sự phục hưng cho truyền thông và thông tin - thời của những tư duy mới và táo bạo để thúc đẩy mạnh mẽ cơ hội tiếp cận thông cho người dân Mỹ, thông tin y tế cho các cộng đồng trong nước và giá trị của nền dân chủ Mỹ.Các mạng mở đóng vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. Tiềm năng sử dụng công nghệ nhằm tạo ra một nền dân chủ minh bạch và liên thông dường như chưa bao giờ xán lạn hơn[1].
Mạng toàn cầu mở rộng quyền tự do thông tin của con người
Quyền tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người đã được nhân loại thừa nhận. Thậm chí, có ý kiến khẳng định rằng nó là quyền để thực hiện mọi quyền vì không có thông tin thì người dân không thể biết, không thể bàn, không thể làm và không thể kiểm tra bất cứ vấn đề gì; và tất cả các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của công dân đều chỉ có thể đảm bảo thực hiện trên cơ sở đảm bảo quyền tự do thông tin[2].
Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người 1948đã tuyên bố:“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm mà không bị can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào mà không có biên giới”[3] (Điều 19). Hiến pháp Việt Nam hiện hành năm 1992 cũng ghi nhận “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” (Điều 69). Cho đến nay, những khẳng định trên vẫn hoàn toàn đúng. Nhưng vào thời điểm các văn bản trên được ban hành, loài người chưa hiểu rõ về Internet, về mạng toàn cầu và do đó, cũng chưa thể hiểu được quyền tự do thông tin sẽ biến đổi ra sao trong xã hội thông tin toàn cầu.
Thời nay, quyền tự do thông tin đã phát triển một cách bùng nổ:
1. Con người có thể tiếp cận gần như mọi thông tin qua mạng toàn cầu mà không lệ thuộc truyền thông truyền thống (báo chí, sách, nhà nước) như trước.
2. Con người có thể thu thập lượng thông tin đồ sộ một cách dễ dàng và gần như miễn phí. Đặc biệt với sự hỗ trợ của những trang tìm kiếm (nổi tiếng nhất là Google.com).
3. Con người được tiếp cận các thông tin đa chiều (do ai cũng có thể đưa thông tin lên mạng) để có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Nhờ vào Internet, hoàn toàn có thể hi vọng một sự thay đổi thực sự, đặc biệt là thông qua việc sử dụng các mô hình kết hợp để cho ra đời các báo cáo xác thực, dựa trên phương pháp thu thập dữ liệu từ công chúng. Có hàng chục tổ chức phi chính phủ bắt đầu tìm kiếm tất cả các loại dữ liệu mà trước đây không thể có được, ví dụ như các báo cáo về ô nhiễm và tội phạm thành thị. Các báo cáo này có sự đóng góp của những người sử dụng thường xuyên[4].
4. Một cộng đồng người có thể truyền tin cho nhau một cách đồng thời và cực kỳ nhanh chóng thông qua các mạng xã hội (Facebook, Twitter, Youtube…)
Sự bùng nổ thông tin đã nảy sinh những cuộc tranh luận lớn kéo dài cả thập kỷ qua như vai trò của điện thoại di động trong sự phát triển kinh tế, vai trò của blog trong việc tăng cường sự đa dạng của truyền thông, vai trò của mạng xã hội trong các cuộc phát động chính trị[5]...
Quyền tự do thông tin phát triển theo xu hướng không thể đảo ngược: Những tích cực và tiêu cực
Tích cực:
1. Việc tìm kiếm thông tin trở nên quá dễ dàng tạo ra hiệu ứng thừa thông tin. Chính vì vậy, con người sẽ phải chọn lọc những thông tin hữu ích. Những thông tin “rác” sẽ bị loại trừ, những thông tin tích cực sẽ được khuyến khích. Hay nói cách khác, thông tin được sàng lọc để ngày càng chất lượng hơn. Đã có những dịch vụ “sàng lọc” thông tin như tại website www.ComplaintRemover.com đã quảng cáo “Bạn có muốn thông tin tiêu cực được gỡ bỏ? Chúng tôi là những chuyên gia trong việc gỡ bỏ nhưng link xấu ra khỏi trang đầu trong bộ máy tìm kiếm!”[6].
2. Quyền tự do thông tin được mở rộng cũng tạo điều kiện cho các quyền con người khác phát triển. Đặc biệt là những quyền cần xử lý thông tin như quyền tự do báo chí, quyền lập hội, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền khiếu nại, quyền tố cáo… Tiếp cận theo lý thuyết về “điểm bùng phát”[7], quyền tự do thông tin sẽ là điểm chốt và cần kích thích vào điểm chốt này để tạo hiệu ứng “bùng phát” trong hệ thống các quyền con người.
Chúng ta có thể hy vọng một sự thúc đẩy dân chủ hóa xã hội một cách tích cực. Một nền “chính trị điện tử” đã xuất hiện. Như có người đã phân tích: “không gian số” sẽ đem lại sinh khí mà xã hội dân sự cần để hoạt động. Được trang bị các công cụ rẻ tiền và dễ sử dụng để huy động nguồn quỹ, dễ xuất bản, và các nền tảng huy động hiệu quả (đầu tiên là MySpace và bây giờ là Facebook và MeetUp), các tổ chức xã hội dân sự có thể vượt qua lỗ hổng tài nguyên và sự thiếu hiệu quả trong hoạt động trước đây để trở nên nhanh hơn, tinh gọn và mạnh mẽ hơn[8].
3. Trong xã hội thông tin toàn cầu, dường như không có chỗ cho sự lọc lừa, dối trá, bưng bít. Những bí mật ngày càng ít đi. Để không bị đặt ra ngoài lề xã hội, con người (nhà nước, tổ chức xã hội, cá nhân) ngày càng phải trung thực, minh bạch hơn. Đây là tiền đề quan trọng cho nhà nước pháp quyền và xã hội lành mạnh.
Tiêu cực:
1. Sự vi phạm quyền con người cũng trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt các quyền liên quan đến bí mật đời tư, bí mật thư tín, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tác giả… Thông tin bôi nhọ, thông tin đời tư có thể “lây lan” khủng khiếp qua mạng. Hơn nữa, lại rất khó khăn phát hiện người vi phạm pháp luật thông qua mạng toàn cầu.
2. Sự kích động nhằm mục đích xấu (khủng bố, bạo lực, phân biệt chủng tộc...) trở nên nguy hiểm hơn cho xã hội do có tính lây lan rất nhanh. Mặc dù công nghệ Internet chắc chắn là đã giảm bớt đi quyền lực nhà nước nhưng đồng thời, nó cũng củng cố quyền lực cho những ai không nằm trong danh sách “bạn bè của xã hội dân sự” (các phong trào cực đoan)[9].
Các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền tự do thông tin
Mạng toàn cầu đã làm thay đổi quyền tự do thông tin của con người theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Những vấn đề xã hội mới được hình thành. Xu hướng không thể đảo ngược này khiến các nhà nước phải quan tâm xây dựng một khung pháp lý về quyền tự do thông tin nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của mạng toàn cầu.
Chúng ta cần có một cách tiếp cận toàn diện và hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền tự do thông tin. Việt Nam sẽ không chỉ quan tâm đến xây dựng Luật Tiếp cận thông tin[10] mà cần phải tạo lập một khung pháp lý đẩy đủ và hiệu quả về quyền tự do thông tin. Bởi vì việc tiếp cận thông tin của nhà nước chỉ là một khía cạnh của quyền tự do thông tin. Khung pháp lý này tập trung ở những lĩnh vực sau:
- Quyền tiếp cận thông tin của người dân và trách nhiệm cung cấp thông tin của nhà nước
- Quyền tham gia quản lý nhà nước
- Quyền khiếu nại, quyền tố cáo
- Quyền bày tỏ quan điểm
- Quyền lập hội
- Sự công khai, minh bạch của nhà nước
- Báo chí
- Xuất bản
- An ninh mạng
- Giao dịch điện tử
- Thương mại điện tử
- Bảo vệ danh dự, nhân phẩm
- Bảo vệ bí mật đời tư, bí mật thư tín
Pháp luật về bảo vệ danh dự, nhân phẩm cần được quan tâm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cá nhân (đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết như bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm…) đồng thời nhằm ngăn ngừa sự lợi dụng để hạn chế quyền tự do thông tin. Muốn thực hiện điều đó, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa quyền tự do thông tin và hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt” (Điều 19).
Chúng ta cũng cần xác định rõ và hợp lý các trường hợp ngoại lệ của quyền tự do thông tin để tránh việc hạn chế quyền tự do thông tin một cách phi lý. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 xác định “Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a)Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác. b) Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý” (Điều 19).
Tóm lại, sự phát triển của quyền tự do thông tin trong một thế giới ngày càng “phẳng” đang đặt ra rất nhiều thách thức cho sự cải cách luật pháp cho mọi nhà nước. Sự cải cách này cần toàn diện, đồng bộ và đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của chúng ta.
(Theo Bùi Tiến Đạt // Báo Nghiên cứu Lập Pháp Online)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com