Hiện giờ, nguy cơ phá sản là cái trước mắt, còn các CTCK thì đang tìm mọi cách chống đỡ. Còn chống đỡ như thế nào thì vẫn chưa có một phương sách cụ thể hoặc tối ưu, bởi trên cái nền chung màu tối thì một giải pháp thần diệu khó có thể xuất hiện.
Nỗi khổ quá nhiều "ông chủ"
Điều khó nhất của các CTCK là hầu như tất cả các công ty này đều có số lượng "ông chủ" cực kỳ hùng hậu, chứ không phải chỉ vài ba người. Lý do là thời kỳ chứng khoán sôi động, chỉ cần một nhóm nhỏ vài ba người bỏ ra vài chục tỉ đồng và đề xướng thành lập công ty, sau đó ngay lập tức phát hành cổ phiếu phổ thông ra bên ngoài với giá năm bảy "chấm", ngắm vào những con cừu non dễ thịt đang chờ đợi lao vào. Vì thế các CTCK mới nhanh có tiền vốn đến như vậy.
Chưa có DN nào nhanh chóng huy động được vốn nhanh như các CTCK thời ấy. Chỉ cần có cái giấy phép là huy động vốn được ngay, vài ba trăm tỉ không có gì là khó. Vậy nên, tháng 2/2007 khi CTCK Thiên Việt vừa chỉ mới xuất hiện cái tên là người ta ào ào đổ tiền vào bất luận ở công ty này đang rất lộn xộn. Lộn xộn đến nỗi ông Phạm Kinh Luân không hề biết mình là… Tổng giám đốc công ty! Thế nhưng giá cổ phiếu OTC của công ty này tăng vùn vụt, đã có mấy ngày lên đến 82.000 đồng.
Chính vì điều này mà trong việc đi tìm giải pháp cứu gỡ, cái khó nhất của các CTCK là vốn của công ty không phải là của một nhóm vài ba người, mà là của số đông cổ đông, hàng trăm, hàng ngàn "ông chủ". Mọi việc mang tính chiến lược đều phải đem ra đại hội đồng cổ đông bàn bạc. Nhưng các "ông chủ nhỏ" không hề có kiến thức về kinh tế, kinh doanh, không biết gì về giải pháp, nên gần như mọi cuộc bàn bạc cho giải pháp của công ty đều bất thành. Như CTCK Kim Long, có đến trên dưới 28.000 cổ đông. Cứ cho rằng cổ đông đủ số vốn để tham gia đại hội hoặc ủy quyền là 1.000 người, thì cứ trăm người mười ý, chừng đó con người mà cùng một lúc cãi nhau về giải pháp cứu công ty, thì chắc chắn giải pháp nào cũng bị… băm nát, công ty chỉ có sớm đổ bể hơn.
Điều người ta nghĩ đầu tiên đến số phận của các CTCK hiện nay là khả năng phá sản cực cao. Tuy nhiên, chính vì cái vướng trên kia nên muốn phá sản cũng hoàn toàn không hề dễ. Chưa kể luật phá sản của ta hiện chưa hoàn thiện, mà giả sử rằng đã hoàn thiện rồi thì việc dính tới hàng trăm tỉ đồng của hàng nghìn con người, thật không dễ phá sản chút nào. Với ta, luật phá sản chưa hoàn thiện, nên không dễ gì khi công ty làm ăn thua lỗ, hết tiền là tuyên bố phá sản được ngay. Chưa kể hiệu ứng dây chuyền, nếu một hai công ty đơn lẻ phá sản thì hiệu ứng không lớn, nhưng nếu hàng loạt công ty cùng ngành cùng tuyên bố phá sản đồng loạt, thì chưa rõ việc gì sẽ xảy ra với thị trường chứng khoán và với nền kinh tế này. Như vậy liệu UBCKNN, Bộ Tài chính và các cơ quan quản lý khác có đồng ý cho các CTCK lập thủ tục phá sản?
Như vậy, nếu không phá sản được thì con đường duy nhất của các công ty là vẫn phải… tồn tại. Nhưng tồn tại mà không có cách gì khác hơn thì cũng có nghĩa là sống đó để nhìn thấy cái chết đến dần dần. Nếu công ty có chuyển đổi sang hình thức nào đó cái khó chính là giải quyết thế nào với tài sản của cổ đông. Sẽ giải quyết ra sao khi bản thân vốn của nhà đầu tư hiện giờ không phải là đồng tiền cụ thể, mà chỉ là những cổ phiếu. Mà cổ phiếu thì ai cũng biết, khi công ty thua lỗ thì cổ phiếu không khác gì tờ giấy lộn, bán không ai mua? Số lượng cổ phiếu khổng lồ không rõ sẽ được "chuyển đổi" thành cái gì cho hợp lý.
Mua bán, sáp nhập, bơm tiền: Không hề dễ!
Đã có ý kiến thử đưa ra là bơm thêm tiền để cứu vãn tình thế, tuy nhiên hầu hết cổ đông lắc đầu. Bởi, trong bối cảnh thị trường như hiện nay thì càng bơm thêm tiền càng chết chứ không có hy vọng gì níu kéo được. Kể cả, khi kêu gọi bơm tiền, HĐQT cũng không thể nào dám hứa chắc với cổ đông là sẽ kinh doanh có lãi. Mà như vậy thì ai dám bơm, bởi lâu nay nhà đầu tư đã gửi vàng... nhầm mặt!
Liên kết hay mua bán sáp nhập cũng đều không khả thi. Ngày trước, khi những người nhiều tiền đứng ra thành lập công ty đã có ý nghĩ, sau khi gia nhập WTO, thị trường tài chính rộng mở, sẽ bán công ty cho nước ngoài. Nhưng tính toán này đã sai khi nước ngoài có quyền thành lập doanh nghiệp 100% vốn của họ. Còn sáp nhập, chỉ khi một công ty đang giàu mạnh mới mua lại công ty thua lỗ với giá rẻ, chứ trong bối cảnh gần như tất cả các CTCK đều thua lỗ hoặc nếu không thua lỗ thì cũng đang liêu xiêu với thị trường, thì khó có thể mua bán, sáp nhập. Nếu nói "Một cây làm chẳng nên non...", nhưng ở đây, hai ba "cây" đang thua lỗ chỏng vó thì khi nhập lại cũng không khác những khó khăn đó cộng lại thành một cái khó lớn hơn.
Với những công ty khá tốt nhưng do bối cảnh chung của nền kinh tế mà bị thua lỗ thì còn có thể bán được, nhưng cũng rất ít ỏi như Gia Quyền, An Bình, Việt Nam, Nhấp và Gọi... Riêng các công ty vốn nhỏ, thị phần gần như bằng không, hạ tầng và dịch vụ kém, thì chẳng ai mua để làm gì. Chính ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch HĐQT Công ty SSI, trong thời kỳ còn "hùng mạnh" đã nói rất rõ rằng ông không có nhu cầu mua lại các CTCK thua lỗ. Lý do ông Hưng nêu ra là, về vốn và thị trường thì SSI lớn nhất, về nghiệp vụ thì SSI giỏi nhất, dịch vụ tốt nhất, hạ tầng tốt nhất, như vậy không cớ gì ông phải mua và sau đó gánh một công ty thua kém SSI về mọi mặt.
Tuy nhiên, hiện thời thì các CTCK không thể ngồi nhìn, chờ chết, mà trước tiên phải có một vài giải pháp nhỏ để tồn tại, chờ thời cơ may ra có cơ hội hồi phục. Hiện nay, khi chưa tìm được lối ra, đa số các công ty đã thu hẹp bớt quy mô bằng việc đóng cửa chi nhánh, đại lý nhận lệnh, hạn chế tự doanh, hạn chế lưu ký. Nhiều công ty đã giảm dần tỷ trọng tự doanh, vừa để đáp ứng những yêu cầu của Thông tư 226, cũng là cách tránh nguy cơ bị đưa vào diện kiểm soát nếu tỷ lệ an toàn tài chính không đảm bảo. SSI chuyển hết tự doanh sang công ty quản lý quỹ từ tháng 6/2011.
Tuy không mở rộng thị phần, song các công ty đều hiểu rằng số lượng nhà đầu tư chính là sự sống còn của công ty, nên hiện nay đa số các công ty tập trung khá nhiều cho công việc thúc đẩy hoạt động môi giới, tư vấn doanh nghiệp. Ngay năm 2010, trong xu thế đi xuống của thị trường nhiều công ty chứng khoán đã có doanh thu khá từ mảng tư vấn. Dẫn đầu là FPTS với 188 tỉ, tiếp đến là SSI, SBS lần lượt 108 tỉ và 73 tỉ. Trước đó năm 2009, doanh thu từ tư vấn của các công ty như FPTS, SSI chỉ khoảng 50-54 tỉ. Cá biệt SBS doanh thu tư vấn của năm 2009 chỉ 7 tỉ. Công ty CTS trong đại hội cổ đông, các lãnh đạo đã giao 50% chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận của công ty là đến từ mảng tư vấn doanh nghiệp. Một bằng chứng rõ ràng là phải nói, đây là hướng đi đúng, nếu CTCK ngay từ đầu tập trung cho hướng này thì hiện giờ không đến nỗi phải lâm vào cảnh khó khăn thua lỗ.
Chờ đợi tín hiệu từ Chính phủ
Tiến sĩ Đinh Thế Hiển cho rằng, trong cái rủi có khi lại là cơ hội. Theo vị tiến sĩ này, không có gì phải nói đến chuyện "giải cứu", bởi sự thua lỗ này là do cung cách làm ăn của doanh nghiệp mà ra, chứ không phải do cơ chế bó buộc. Chính vì vậy đây là dịp để thị trường thanh lọc. Những công ty nhỏ, vốn kém, nghiệp vụ kém, hạ tầng yếu, sẽ phải nhường chỗ cho những công ty làm ăn nghiêm túc và chuyên nghiệp. Có như vậy thì bộ mặt của TTCK mới sáng sủa lên phần nào, và các công ty còn duy trì cũng qua đó nghiêm túc đánh giá, điều chỉnh lại hoạt động của mình.
Điều vị chuyên gia độc lập nói như vậy là đương nhiên, bởi đó là sự sàng lọc tự nhiên của nền kinh tế thị trường. TTCK Đài Loan thời điểm cao nhất có 278 công ty, sau đó sụt giảm còn 48 công ty. TTCK Thái Lan trước đây cũng có tới hơn 200 CTCK, sau đó giảm xuống còn hơn 50 công ty. Nên, việc thị trường sẽ có sự đào thải, sắp xếp lại là tất yếu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường khó khăn như hiện nay và đã trót lỗ nhưng chưa… đào thải được, thì các công ty vẫn còn một niềm hy vọng vào sự hồi phục khi thị trường đi lên trở lại. Nhưng, với tình hình kinh tế như hiện nay thì một cuộc đi lên của thị trường vẫn còn rất xa. Vì vậy, điều mà TTCK trông đợi chính là các giải pháp cởi mở từ Chính phủ mà cụ thể là UBCKNN, Bộ Tài chính, ngõ hầu sẽ hỗ trợ được cho sự khôi phục của thị trường. Theo nhà đầu tư Hoàng Quân, một người đã có trên 10 tỉ đồng bỏ vào TTCK, với bối cảnh nền kinh tế khó khăn như hiện nay, thì chỉ duy nhất sự hỗ trợ của cơ quan quản lý mới có khả năng hỗ trợ thị trường phục hồi.
Một số CTCK thua lỗ trong năm 2010 Ngân hàng ĐT&PT (BSC): 554 tỉ đồng (năm 2008) Kim Long : 172 tỉ đồng Vina (lũy kế 3 năm) : 126,4 tỉ đồng Bảo Việt : 92 tỉ đồng Hải Phòng : 48,7 tỉ đồng Tầm Nhìn (lũy kế 4 năm) : 36,2 tỉ đồng Sao Việt : 21,3 tỉ đồng Nam Việt (lũy kế 4 năm) : 16 tỉ đồng Miền Nam (lũy kế 3 năm) : 22 tỉ đồng |
Hỗ trợ ở đây không có nghĩa là Nhà nước bơm tiền hay nhảy vào cứu, mà là dỡ bỏ những giải pháp lâu nay kìm hãm đã khiến thị trường mất tính thanh khoản. Theo ông Nguyễn Hải Thanh, vẫn có một số cách trong việc dỡ bỏ các quy định, các rào cản đã làm giảm tính thanh khoản của thị trường. Chẳng hạn quy định T+4, bản chất là mua mà không cho bán, yêu cầu đầu tư chứ không cho lướt sóng. Nhưng quy định này đã quá lỗi thời, bởi bản chất của thị trường là lướt sóng, là mua - bán, chứ không phải đầu tư. Trong khi đó với quy định này, từ khi mua cổ phiếu, đến khi bán được và chờ tiền về để mua lại, mất đứt 10 ngày (kể cả thứ Bảy và Chủ nhật). Trong 10 ngày đó thị trường đã hoàn toàn khác, nhà đầu tư không còn chủ động được nữa. Vì vậy, dỡ bỏ quy định T+4 là điều cần kíp nhất để thị trường tăng nhịp độ giao dịch, giúp tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu.
Bên cạnh đó là, đến giờ UBCK NN vẫn không cho phép bán khống nên nhà đầu tư chỉ đánh được theo một chiều lên. Chính đây là điểm thắt khiến thị trường không thể thanh khoản được. Nếu cho phép bán khống, thì khi thị trường đi xuống, nhà đầu tư vẫn bán được cổ phiếu để kỳ vọng mua được thấp hơn. Điều này sẽ giúp cho thị trường dù lên hay xuống thì vẫn mua bán được, và nhà đầu tư sẽ không rời bỏ thị trường. Và nếu vậy thì các CTCK mới tồn tại được.
Kiểm soát chặt hơn việc cho phép doanh nghiệp niêm yết và phát hành cổ phiếu huy động vốn cũng là một yếu tố quan trọng giúp thị trường có chất lượng để làm tăng giá trị cổ phiếu, sẽ giúp việc đầu tư có giá trị thực chứ không ảo. Những năm qua, khi thị trường sôi động, thấy việc huy động vốn quá ngon ăn vì sinh lời nhiều, các doanh nghiệp đã tranh thủ thành lập, phát hành cổ phiếu hàng loạt, gây ra tình trạng bội thực cổ phiếu kém chất lượng.
Theo thống kê của CTCK Nam Việt, chỉ năm 2009 các doanh nghiệp đã phát hành gần 100 nghìn tỉ, như vậy gần như đã rút gần hết trong thị trường, đồng tiền không lưu động được. Khi sản xuất không có sản phẩm mà vốn đầu tư tài chính quá nhiều thì có nghĩa là đầu tư tài chính không sinh lãi. Và như vậy, một lúc nào đó bong bóng tài chính sẽ vỡ là tất yếu, và các CTCK đem tiền đi đầu tư tài chính sẽ vỡ trước tiên. Khi TTCK đi xuống, đầu tư không sinh lãi mà lãi suất ngân hàng tăng, thì chứng khoán không còn hấp dẫn nữa. Số tiền này lại rút ra khỏi thị trường khiến giá cổ phiếu thấp xuống, lại càng khiến cho TTCK khủng hoảng sâu sắc hơn.
Chính vì vậy, những giải pháp vĩ mô từ Chính phủ, mà cụ thể là UBCKNN, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính mới là cơ may, là niềm hy vọng làm chiếc phao cứu đắm cho CTCK chứ không còn là yếu tố nào khác. Chỉ khi nào các cơ chế cởi mở được thực hiện, thì các CTCK mới có cơ may vực dậy, phục hồi, rồi sau đó mới có điều kiện cải tạo lại mình!
Đặng Vỹ // Theo CAND
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com