Lãi suất huy động VND đã bỏ xa đồng thuận giữa các thành viên trong Hiệp hội Ngân hàng (NH) là 12%/năm khi "leo" lên 15%/năm, khiến "đỉnh" của lãi suất cho vay VND đạt 21%/năm. Bài toán lãi suất lại một lần nữa khiến ngành chức năng đau đầu, bởi phải hài hòa quyền lợi giữa người gửi tiền - NH và doanh nghiệp (DN) là việc không dễ. "Nóng"… cuộc đua lãi suất
Ảnh minh họa
Đầu tháng 11, trong cuộc họp do NH Nhà nước (NN) chủ trì, các NH thành viên của Hiệp hội NH đã đồng thuận nâng lãi suất huy động từ 11%/năm lên không quá 12%/năm kể từ ngày 8-11. Tuy nhiên, chỉ sau đó khoảng một tuần, nhiều NH đã "phá rào", nâng lãi suất huy động lên 13%/năm, rồi 13,5%/năm, 14,5%/năm. Thậm chí, có NH còn thỏa thuận "ngầm" với khách hàng, cộng thêm lãi suất 3%/năm so với lãi suất niêm yết bằng cách đưa khách hàng ký thêm một hợp đồng phụ, ngoài mức lãi suất 12%/năm trên hợp đồng chính, nâng tổng mức lãi suất mà khách hàng nhận được là 15%/năm. Mức lãi suất này khiến không ít người mừng, bởi sau một thời gian dài không biến động, lãi suất huy động đã cao hơn, giúp kênh gửi tiết kiệm hấp dẫn hơn với giới đầu tư. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán chưa có dấu hiệu khởi sắc, giá vàng biến động thất thường, thị trường bất động sản còn "đóng băng" thì gửi tiết kiệm cũng được nhiều người nhắm để tránh rủi ro, bảo toàn nguồn tiền.
Còn theo các NH, lý do "phá rào" được đưa ra không phải không có lý. Theo đại diện một NH ở Hà Nội, con số lạm phát quá cao buộc NH phải tăng lãi suất để thu hút khách hàng. Hơn nữa, thời điểm cuối năm, nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh của DN, cũng như vay tiêu dùng của người dân lớn, nên NH phải tìm mọi cách để tăng nguồn vốn huy động. Cũng như những lĩnh vực kinh doanh khác, giữa các NH luôn cạnh tranh. Khi một NH tăng lãi suất huy động, những NH khác cũng không thể đứng nhìn, khiến cuộc đua lãi suất ngày càng "nóng". Ngay cả những NH mặc dù không gặp khó khăn về nguồn vốn vẫn phải tăng lãi suất để giữ chân khách hàng. Tuy nhiên, do mặt bằng lãi suất không quá nhiều biến động, nên sự dịch chuyển tiền gửi từ NH này sang NH khác đã không xảy ra.
Ngân hàng đẩy doanh nghiệp vào thế khó?
Với lãi suất huy động cao, người gửi tiền mừng, còn DN "khóc dở mếu dở", bởi nếu lãi suất "đầu vào" lên đến 14,5-15%/năm, "đầu ra" tối thiểu là 18,5%/năm, thậm chí là 20-21%/năm. Như vậy, nếu DN vay vốn NH, để có thể duy trì hoạt động, ngoài lãi suất phải trả NH hằng tháng, cộng với chi phí nhân công, nhà xưởng... khó có DN nào "gánh" được. Khách hàng cá nhân cũng sẽ phải tính toán kỹ trước khi vay vốn NH để phục vụ mục đích tiêu dùng, vì lãi suất quá cao.
Song, cũng có ý kiến, lãi suất không thể duy trì ở mức thấp trong bối cảnh hiện nay, vì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả năm dự báo đạt hai con số. Khi lạm phát tăng cao, nếu không tăng lãi suất huy động, NH không dễ huy động được nguồn vốn. Hơn nữa, tăng lãi suất VND là tăng uy tín cho đồng tiền trong nước, dần xóa bỏ tâm lý găm giữ ngoại tệ trong DN cũng như dân cư. Khi lãi suất huy động VND đạt mức hấp dẫn, người dân sẽ phải đưa lên bàn cân xem liệu mua ngoại tệ, mà chủ yếu là đồng USD, rồi gửi tiết kiệm NH hay gửi trực tiếp bằng tiền VND. Chỉ cần nhìn vào biểu lãi suất giữa VND và USD có thể thấy rõ sự "chênh" nhau. Ngay cả lãi suất USD khá cao so với một số quốc gia khác, cũng chỉ ở khoảng 5-5,5%/năm, trong khi đó, lãi suất VND gấp 3 lần so với USD. Có chuyên gia lại nhận định, áp dụng lãi suất cao trong thời điểm này là để chống lạm phát và ổn định tỷ giá, bởi khi lãi suất cao sẽ thu hút người dân gửi tiền nhiều hơn, hạn chế tiêu dùng nên không gây áp lực lên lạm phát, tỷ giá.
Tuy nhiên, cần phải tăng lãi suất không có nghĩa là thả nổi lãi suất như hiện nay. Tình trạng các NH đua nhau tăng lãi suất theo kiểu không công khai có thể dẫn đến sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong hệ thống NH. Nếu cuộc đua lãi suất không dừng lại, việc khách hàng rút tiền từ NH này sang gửi NH khác rất có khả năng xảy ra, gây xáo trộn hệ thống NH. Đã đến lúc ngành chức năng cần có những chính sách tiền tệ hợp lý để có thể hài hòa lợi ích ba bên: người gửi tiền - NH - DN. Theo tính toán của các chuyên gia, lãi suất huy động chỉ nên dừng ở mức tối đa là 13%/năm, để lãi suất cho vay dao động trong khoảng 17-18%/năm là NH đã có thể hài hòa lợi ích cho cả người gửi tiền, NH và DN, chứ không nhất thiết phải chạy đua ngầm về lãi suất huy động, vì như vậy có nghĩa là NH đẩy DN vào thế khó.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Sau một ngày bị "đẩy" lên "đỉnh" 18%/năm, lãi suất huy động VND đã "hạ nhiệt". Tuy nhiên, sự biến động trên thị trường tiền tệ vẫn khiến nhiều người lo ngại và đã đến lúc cơ quan chức năng cần đưa ra những chính sách cụ thể hơn để thị trường tiền tệ hoạt động ổn định…
Công cụ thanh toán trực tuyến đã phổ biến ở nhiều nước nhưng công cụ này xem ra vẫn còn xa lạ với người tiêu dùng Việt Nam. Thói quen dùng tiền mặt vẫn còn nặng. Được rột rẹt những tờ giấy bạc trong tay không chỉ là niềm vui mà còn là cảm giác “an toàn”!
Gần đây, lĩnh vực kinh tế xuất hiện cụm từ “lạm phát tâm lý” hay còn gọi là lạm phát “ảo”. Có lạm phát thật thì cũng có lạm phát “ảo”.
So với cùng kỳ năm trước, trong mùa kinh doanh cao điểm năm nay, nhu cầu vốn của doanh nghiệp không tăng như kỳ vọng của các nhà băng, bởi áp lực lãi suất thỏa thuận tăng dần theo chi phí đầu vào. Mặt khác, các ngân hàng cũng cho hay, nguồn vốn huy động về ngày một hạn chế. Đồng thời, với mức lãi suất hiện nay, trao vốn cho khách hàng cũng rủi ro.
Hai tỷ giá, hai lãi suất – đó là những “thuật ngữ” mà không chỉ người trong ngành, giới chuyên gia nhắc đi nhắc lại trong thời điểm hiện nay mà cả người tiêu dùng, thậm chí những người nông dân cũng phải “điên đầu” vì những rối ren trên thị trường tiền tệ.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.