Mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng năm nay chắc chắn sẽ không thấp |
Nhìn chung, ở mỗi nước, khi chuyển từ chính sách tiền tệ, tài khoá thắt chặt sang nới lỏng hay ngược lại; hoặc khi tăng hay hạ lãi suất một cách đột ngột, đều cần có hệ thống ngân hàng mạnh.
Từ thắt chặt đến nới lỏng
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp yếu và ngân hàng chưa đủ sức thường dễ bị tổn thương trước các cú sốc. Chẳng hạn như, cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động năm 2008 cho thấy, có nhiều doanh nghiệp và ngân hàng lâm vào khó khăn; và khi lãi suất giảm nhanh nhiều ngân hàng thương mại cổ phần yếu cũng gặp khó khăn không kém.
Với diễn biến như hiện nay và các doanh nghiệp luôn kỳ vọng về lãi suất thấp (không loại trừ đảo nợ vay ngân hàng)... chắc chắn mặt bằng lãi suất sẽ giảm nhanh chóng. Sự thay đổi này rồi sẽ dẫn đến sự “vênh” lớn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn diễn ra tại các ngân hàng thương mại (như vênh về kỳ hạn, vênh về giá vốn...). Ngân hàng càng yếu thì độ “vênh” này càng rõ.
Thực tế cho thấy, năm 2008, các NHTM yếu kém ở Việt Nam có biểu hiện không theo kịp sự thay đổi của thị trường và chính sách. Do vậy, họ đã bị cuốn vào trào lưu siêu lãi suất (do phải huy động nguồn vốn bằng mọi giá). Thực tế cũng cho thấy, vấn đề của các NHTM Việt Nam hiện tại và trong trung hạn là khâu quản lý tài sản Có - tài sản Nợ (ALCO). Đây là khâu sung yếu nhất. Sự yếu kém này đưa đến tình trạng là, các NHTM khó có thể “sản sinh ra” một sản phẩm có giá rẻ hay lãi suất thấp, mà thông thường luôn có khuynh hướng tìm mọi cách để cho vay với lãi suất cao hoặc tìm cách để “đẻ” thêm các loại phí rất mới lạ như thời gian gần đây (như phí ATM, phí tư vấn...).
Ngân hàng tốt để truyền tải chính sách tốt
Rõ ràng, việc Chính phủ ban hành chính sách kích cầu có ý nghĩa lớn khi nền kinh tế đang có dấu hiện suy giảm, các doanh nghiệp đang khó khăn, nạn thất nghiệp gia tăng... Tuy nhiên, để chính sách này được truyền tải tốt, đi được vào cuộc sống thì cần một hệ thống ngân hàng tốt thực sự.
Theo ước tính, nếu sử dụng hết 17.000 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất, tổng vốn giá rẻ cung ứng cho nền kinh tế năm 2009 có thể lên đến 620.000 - 650.000 tỉ đồng. Thêm vào đó, một loạt các NHTM cũng đã nới rộng hạn mức cho vay tiêu dùng lên tới vài trăm triệu đồng/khách hàng... Như vậy, tốc độ tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế năm nay chắc chắn là không thấp, và có thể còn tăng rất mạnh. Khi tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, chắc chắn hiệu quả về tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn sẽ cao trong năm 2009 và 2010. Nhưng về trung hạn, nếu khu vực doanh nghiệp không có khả năng hấp thụ vốn thực sự tốt thì những tác dụng của kích cầu ngày hôm nay chỉ duy trì được trong ngắn hạn. Vấn đề đặt ra là, hệ thống ngân hàng cần đủ mạnh để có thể giúp nền kinh tế tiêu thụ hết một lượng vốn lớn như vậy, trong khi mục tiêu kính cầu vẫn đạt được.
Trong điều kiện nới lỏng tiền tệ (tín dụng) nền kinh tế cần một hệ thống ngân hàng hiệu quả (đặc biệt hệ thống quản lý rủi ro phải hoạt động tốt). Việc cho vay hỗ trợ phải đảm bảo hạn chế được việc các doanh nghiệp vay để đảo nợ (trả những khoản nợ đang vay để vay vốn mới với lãi suất thấp hơn); và đảm bảo rằng các doanh nghiệp khó khăn, không đủ điều kiện vay sẽ tiếp cận được khoản hỗ trợ này... để thoát ra khỏi khó khăn và qua đó trả được nợ trong tương lai. Khi có nới lỏng tín dụng hay hỗ trợ của Nhà nước, thường xuất hiện hành vi lợi dụng. Các NHTM có chế độ quản lý yếu kém có thể bị sà sẻo do nhân viên tham nhũng, hoặc có khi chính ngân hàng lại lợi dụng các chính sách hỗ trợ này của Nhà nước để làm lợi cho mình ...
Kinh nghiệm cho thấy, các ngân hàng yếu kém thường bị hạn chế về khả năng thẩm định dự án cho vay và có khuynh hướng hạ thấp điều kiện vay vốn. Trên phương diện vĩ mô, hiệu quả của tăng trưởng tín dụng phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và khả năng điều tiết của hệ thống ngân hàng (phân tích đánh giá doanh nghiệp khi cho vay), nếu không sẽ đứng trước mối lo nợ quá hạn trong tương lai.
Việc hạ thấp tiêu chuẩn cho vay để mở rộng tín dụng bằng mọi giá có thể để lại hậu quả mà bài học “cho vay dưới chuẩn” ở Mỹ vẫn còn đó. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế đạt hiệu quả tốt khi tỷ lệ tăng trưởng tín dụng gấp khoảng 3 lần tăng trưởng kinh tế (GDP).
Trong bất kỳ thời gian nào, để đảm bảo tăng trưởng tín dụng bền vững, không thái quá thì vấn đề nâng cao năng lực quản lý của các ngân hàng (kể cả khi thực hiện chính sách kích cầu) cần được quan tâm liên tục, thỏa đáng. Việc chạy theo thành tích hay chạy theo số lượng mà không quan tâm tới chất lượng thường để lại hậu quả về trung hạn. Một hệ thống ngân hàng tốt sẽ có khả năng truyền tải chính sách tiền tệ hiệu quả trong, đó bao gồm cả chính sách kính cầu.
ACB điều chỉnh lãi suất cho vay xuất khẩu xuống 1%
|
( Theo báo Diễn đàn doanh nghiệp )
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com