Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để sản xuất kinh doanh.
Hiện cả nước có gần 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm 90% tổng số doanh nghiệp Việt Nam, đây là lực lượng sản xuất quan trọng vì tạo ra gần 50% GDP cho nền kinh tế, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Song, đến nay phần lớn những doanh nghiệp này lại đang loay hoay, khó tiếp cận các nguồn vốn, nhất là vốn ngân hàng.
Tại hội thảo “Vai trò kiểm toán trong việc gia tăng cơ hội tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp” do Hiệp hội Kế toán công chứng Anh tại Việt Nam (ACCA) phối hợp với báo Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức ngày 9/9, giới ngân hàng và kiểm toán cho rằng, việc tiếp cận vốn vay cũng không quá khó, nếu doanh nghiệp hiểu rõ và nắm bắt được các điều kiện mà ngân hàng cần.
Bên cạnh đó, những doanh nghiệp này cũng cần phải trang bị được cho mình báo cáo tài chính minh bạch, rõ ràng. Đây là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp này có thể tiếp cận các nguồn vốn, kêu gọi đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay
Ông Trần Thanh Phong, Giám đốc Công ty Nhựa và in Phú Thịnh cho biết, là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên việc tiếp cận vốn ngân hàng rất khó khăn, song do nhu cầu vốn để mở rộng hoạt động và mong muốn được sử dụng nguồn vốn ngân hàng, Công ty nhiều lần tìm đến ngân hàng, nhưng đều bị từ chối.
Hiện nguồn vốn lưu động của Công ty đều do tự phải xoay sở bằng cách vay từ tín dụng ngoài ngân hàng. Lãi vay phải trả lên đến 1 tỷ đồng mỗi năm, dẫn đến chi phí hoạt động tăng, lãi giảm.
Cũng theo ông Phong, các ngân hàng cần có chính sách “mở” hơn trong việc xét duyệt hồ sơ cấp tín dụng, nhất là yếu tố tài sản đảm bảo. Có như vậy mới giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có thêm điều kiện tiếp cận vốn vay ngân hàng.
“Thực tế hiện nay, trong các điều kiện tín dụng mà ngân hàng đưa ra, tài sản đảm bảo luôn là yếu tố đòi hỏi đầu tiên, vì thế rất khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa”, ông Phong nói.
Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để sản xuất kinh doanh. Một thống kê của Vụ Tín dụng, Ngân hàng Nhà nước ngày 29/9/2009 công bố, mới có 50% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh (163 nghìn doanh nghiệp) có quan hệ tín dụng với ngân hàng và tổng dư nợ tín dụng chiếm 27,3% dư nợ tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, có đến 50% doanh nghiệp ngoài quốc doanh (mà lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đại đa số) còn phải tự xoay xở từ thị trường không chính thức với hệ quả khôn lường.
Theo một kết quả điều tra khác của Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), chỉ có 1/3 doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng; 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Trong số doanh nghiệp tại Việt Nam không tiếp cận được vốn vay ngân hàng thì 80% không đáp ứng đủ điều kiện cho vay.
Chính vì sự khó khăn này nên có nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng đang “gây khó dễ” với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Giải thích điều này, bà Nguyễn Thị Hương Nga, Trưởng Ban rủi ro tín dụng Ngân hàng ANZ cho rằng, điều này rất phi lý, nhất là trong bối cảnh các ngân hàng đang phải cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Thực tế, khi xem xét hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp, ngân hàng thường quan tâm đến các yếu tố như phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của doanh nghiệp, năng lực vốn sở hữu hiện tại của doanh nghiệp, tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh dựa trên các báo cáo tài chính…
Chuyên gia tài chính độc lập Nguyễn Đại Lai thẳng thắn: Nguồn vốn của ngân hàng còn hạn hẹp, năng lực thẩm định còn hạn chế do đó phải thận trọng trong các quyết định cho vay. Điều làm cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận vốn vì ngân hàng e ngại về “tư cách” vay vốn, về năng lực trả nợ của họ. Vì hầu hết khối doanh nghiệp này là thành phần kinh tế tư nhân và cổ phần, không có “bà đỡ” phía sau bảo đảm như doanh nghiệp nhà nước.
Minh bạch tài chính doanh nghiệp qua kiểm toán
Cũng theo các chuyên gia, nhiều doanh nghiệp vẫn biết rằng muốn nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp thì việc thông qua các báo cáo kiểm toán là tối ưu nhất, vì đây là công cụ kiểm tra tài chính cần và có thể làm tốt chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận thông tin tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa thực hiện kiểm toán.
Bà Lê Thị Hồng Len, Trưởng đại diện ACCA Việt Nam cho biết: Nguyên nhân là do chi phí doanh nghiệp sẽ “đội” lên đáng kể khi phải thực hiện kiểm toán, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn trốn tránh vì cảm giác đây là một cuộc sát hạch, một sự kiểm tra gây khó.
Bà Len cho rằng, không có kiểm toán, niềm tin vào năng lực tài chính của các công ty sẽ bị ảnh hưởng. Báo cáo kiểm toán có thể giúp đánh giá chính xác về tình trạng sức khoẻ tài chính và quản lý của công ty cho các bên liên quan. Như vậy, để nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp, dù luật có yêu cầu hay không thì kiểm toán doanh nghiệp vẫn là điều nên làm.
Vì vậy, để giải quyết tốt vấn đề trên, tại hội thảo, các chuyên gia cho rằng: trước hết cần nâng cao năng lực tài chính của cả ngân hàng và doanh nghiệp. Ngân hàng cần nâng cao năng lực tài chính để đảm bảo đủ vốn cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp, cần phải nâng cao năng lực tài chính bằng cách tạo lập một lượng vốn và tài sản đủ cho hoạt động kinh doanh và khả năng tiếp cận các nguồn vốn, trước hết chủ yếu là các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
Muốn vậy, tài chính của doanh nghiệp phải lành mạnh, minh bạch có độ tin cậy cao với ngân hàng, đảm bảo mọi khoản vốn và tài sản được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Để thực hiện được, doanh nghiệp cần phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ, các quy trình, quy tắc quản trị… và kiểm toán nội bộ cũng như kiểm toán dịch vụ từ bên ngoài.
Một số ngân hàng đưa ra kinh nghiệm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi có nhu cầu vốn, nên tiếp cận các chi nhánh hoặc điểm giao dịch quy mô nhỏ và vừa của ngân hàng, thay vì cứ đến hội sở hoặc điểm giao dịch lớn, vì thông thường, tại các điểm giao dịch nhỏ, khách hàng có khoản vốn vay vừa phải sẽ được tư vấn và chăm sóc tốt hơn.
Tuy nhiên, theo những ngân hàng này, để được xét duyệt hồ sơ tín dụng cấp vốn vay, các doanh nghiệp cần chú trọng 4 điều kiện tín dụng: kinh nghiệm và nhân thân; ngành, lĩnh vực hoạt động; dòng tiền của doanh nghiệp; tài sản đảm bảo của doanh nghiệp khi tiếp cận vốn vay.
Theo đánh giá của các ngân hàng, khả năng lãi suất cho vay thỏa thuận sẽ tiếp tục giảm thêm và dần dần đi vào ổn định. Vì thế, các doanh nghiệp có phương án sản xuất, kinh doanh và đáp ứng đủ điều kiện tín dụng nên mạnh dạn tiếp cận vốn vay.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Sau vài ngày tuột khỏi ngưỡng 29 triệu đồng/lượng, giá vàng trong nước lại tăng với tốc độ "phi mã", giao dịch phổ biến ở 29,15 triệu đồng/lượng (mua vào) - 29,24 triệu đồng/lượng (bán ra).
Nhiều năm qua, thực tế đã cho thấy sức cạnh tranh thu hút đầu tư của Việt Nam vượt trội nhiều nền kinh tế khác và thành tích thu hút dự án cũng như nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của VN ít nước sánh được. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia kinh tế, nguồn vốn FDI thời gian gần đây có những dấu hiệu bất ổn, nhất là hiện tượng nhiều dự án lớn chậm triển khai, có nguy cơ vốn ảo...
Sau hơn 20 năm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), Việt Nam tiếp thu một lượng vốn và công nghệ rất đáng khích lệ, góp phần tạo hàng triệu việc làm. ĐTNN đang khẳng định là một kênh cấp vốn cho tăng trưởng kinh tế. Song quá trình thu hút vốn và những hoạt động liên quan còn bộc lộ một số tồn tại cần từng bước khắc phục.
Mặc dù các nhà băng đã thực hiện được hơn nửa chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đề ra cho năm 2010, nhưng trước diễn biến thị trường hiện nay, khi tín dụng tiền đồng chưa mấy sôi động, nhiều ngân hàng tỏ ra lo ngại điều này ảnh sẽ hưởng đến lợi nhuận.
Trao đổi với phóng viên, lãnh đạo nhiều doanh nghiệp tự tin vào kết quả kinh doanh của cả năm 2010 cũng như các năm tiếp theo, bởi theo quy luật thì những tháng cuối năm là “mùa làm ăn” của thị trường bất động sản.
Chính phủ cũng phải có trách nhiệm thúc đẩy nền kinh tế, bởi ngân hàng trung ương không thể một mình xoay sở khi mà chính sách tài khóa đều bị thu hẹp.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.