Việc đại gia ngân hàng BIDV mở màn giảm lãi suất vào chiều 5/9, lộ trình giảm lãi suất xuống 17%-19% vào tháng 9 có vẻ đang đi đúng hướng. Nhưng lạm phá còn cao, để lãi suất giảm mạnh và sâu như mong đợi thì vẫn cần chờ đợi.
Dồn dập ưu đãi lãi suất
Sau những chương trình "thí điểm" của một số ngân hàng trong những ngày cuối tháng 8, đúng hẹn với Ngân hàng Nhà nước, tuần đầu tháng 9, các ngân hàng đã đồng loạt đưa ra các chương trình giảm lãi suất với mức độ mạnh và diện rộng hơn. Đáng chú ý, có sự tham gia của những ngân hàng quốc doanh lớn.
Ngân hàng Đầu tư phát triển cho biết, sẽ bắt đầu kiểm soát lãi suất cho vay sản xuất giảm từ 6/9/2011. Cụ thể, cho vay ngắn hạn: không quá 18,0%/năm, cho vay trung dài hạn: không quá 19,0%/năm. Đặc biệt, BIDV dành 10.000 tỷ đồng cho vay ngắn hạn cho các khách hàng hoạt động các lĩnh vực thu mua nông thuỷ sản xuất khẩu, công nghiệp nông nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng dịch vụ khép kín tại BIDV, với lãi suất ưu đãi từ 15,0% - 17,5%năm.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, BIDV cho biết, cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản chịu tối thiểu 19,0%/năm đối với ngắn hạn và 19,5%/năm đối với trung dài hạn, tiếp tục giữ mức lãi suất cho vay ngoại tệ ở mức cao, khoảng 6,0% - 7,0%/năm nhằm kiểm soát tín dụng ở khu vực này.
Lãnh đạo BIDV cho biết, lãi suất cho vay VND hiện nay phổ biến ở mức từ 20,5% - 22%/năm. Để giảm lãi suất sẽ hỗ trợ sản xuất cho các doanh nghiệp, đây là lần thứ 2, BIDV giảm lãi suất sau đợt giảm hồi trung tuần tháng 8/2011 đưa lãi suất xuống dưới 20%/năm.
Bà Trần Thanh Hoa - Tổng giám đốc ABBANK cho biết, từ ngày 22/8/2011, ABBANK đã triển khai chương trình tín dụng đặc biệt "Yên tài chính - Vững kinh doanh", trong đó khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân vay tiền sản xuất kinh doanh tại ABBANK sẽ được giảm lãi suất 1,5%/năm.
ABBANK đang có kế họach dành hơn 1.000 tỷ đồng để tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu với lãi suất ưu đãi từ 18.5 - 19%/năm. ABBANK dành dư nợ 2.000 tỷ đồng từ nay tới cuối năm cho vay bổ sung vốn lưu động ngắn hạn, tài trợ dự án trung dài hạn đối với doanh nghiệp, cho vay sản xuất kinh doanh trả góp đối với KHCN...
Bà Hòa cho biết, ngoài giảm lãi suất, ngân hàng sẽ hỗ trợ khách hàng tiếp cận với nguồn vốn vay như suất và tạo điều kiện ưu đãi về thời gian, thủ tục hồ sơ vay vốn...
Còn Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội sau chương trình ưu đãi vốn cho nông nghiệp cũng đã lên tiếp một chương trình giảm lãi suất mới. Cụ thể, từ 05/09/2011 SHB có chương trình "Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ" với lãi suất 17%/năm đến 18%/năm với kỳ hạn cho vay tối đa 06 tháng. Chương trình áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn được giải ngân từ đầu tháng 9/2011 đến hết tháng 02/2012.
Như vậy, sau các quyết định điều hành khá mạnh mẽ, nhất là việc tháo gỡ các quy định sử dụng vốn của ngân hàng, lãi suất đã được giam theo đùng cam kết với Ngân hàng Nhà nước.
Ông Trương Văn Phước - Tổng giám đốc Eximbank cho rằng, đà giảm của lãi suất sẽ rõ rệt hơn kể từ tháng 9, trong đó riêng quyết định này có thể giúp lãi suất cho vay giảm bình quân 1% trong vòng 1-3 tháng vì nó giúp các ngân hàng có thể sử dụng hết vốn huy động từ doanh nghiệp, dân cư sau khi đã trừ dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh khoản... để cho vay.
Hơn nữa, việc hủy bỏ các quy định này sẽ tạo ra sự liên thông qua thị trường liên NH, qua đó làm chi phí vốn trong hệ thống NH thấp xuống. Với điều kiện lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng thấp hơn rất nhiều so với lãi suất huy động vốn trên thị trường nên sẽ giúp giảm lãi suất cho vay.
Đà giảm lãi suất cho vay được củng cố hơn khi các ngân hàng đã có dấu hiệu giảm lãi suất huy động. Ghi nhận trên thị trường phía Nam hiện nay cho thấy, lãi suất ngắn hạn dưới 3 tháng chỉ còn 16-16,5%/năm, giảm 1-2%/năm so với đến 17,5%/năm. Hiện nay, mức giảm phổ biến ở các ngân hàng ở Hà Nội khoảng 0,5%. Lãi suất phổ biến hiện khoáng 18% so với mức 19% trước đây. Các kỳ hạn dài có mức giảm mạnh hơn.
Thậm chí, các ngân hàng còn cho biết, với tín hiệu từ Ngân hàng Nhà nước thì các ngân hàng đang nhìn nhau không dám huy động vượt lãi suất nữa. Tất cả đang chờ đợi thông điệp chính thức mới sau khi có những quyết định chỉnh sửa Thông tư 13. Rất có thể, việc huy động vượt trần sẽ không còn phổ biến.
Về cơ bản, khi thanh khoản tốt lên, cho vay chậm lại được hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước thì giảm lãi suất huy động là tất yếu. Điều này đã có thể nhận thấy khi lãi suất huy động thực tế giảm, lãi suất liên ngân hàng giảm... Đây là tín hiệu tích cực để hỗ trợ giảm cho vay.
Lạm phát cao, lãi suất giảm?
Trong một tính toán gần đây, một chuyên gia ngân hàng cho biết, mức chênh lệch khả dĩ có thể tạo ra lợi nhuận trong tín dụng khoảng 4%. Như vậy, để lãi suất cho vay khoảng 18 - 19% thì lãi suất huy động sẽ phải tối đa là 15 - 16%, trong khi trần huy động vẫn được giữ cứng ở mức 14%. Đây có vẻ như là điều khó khăn khi lãi suất huy động vẫn đang ở mức cao 18 - 19%. Gần như không một ngân hàng nào dám giảm đột ngột như thế.
Bà Trần Thanh Hoa cũng cho rằng, việc giảm lãi suất có được thuận lợi là sự đồng thuận và quyết tâm của tất cả các Ngân hàng thương mại cổ phần, đồng thời nhiều ngân hàng cũng đang sở hữu nguồn vốn dồi dào, sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện. Tuy nhiên, khi thực hiện giảm lãi suất ngân hàng vẫn gặp phải một số khó khăn như mức lạm phát cao, chỉ số giá tiêu dùng tăng khiến lãi suất huy động vẫn ở mức cao. Một số biến động khác trên thị trường như giá vàng, giá USD tăng cao cũng ảnh hưởng đến việc điều tiết lãi suất... Vì vậy việc giảm lãi suất cho vay chỉ có thể thực hiện dần dần và phải mất một thời gian để đạt mức lãi suất 17-19% như mong muốn.
Việc giảm lãi suất trong khi lạm phát vẫn ở mức cao lại đang đặt ra nhiều câu hỏi. Lạm phát tháng 8 dù xuống thấp nhất trong 11 tháng qua nhưng vẫn trong đà tăng mạnh. Đến nay đã qua mốc 15% và với chu kỳ tăng giá cuối năm, lạm phát cả năm được nhiều người dự báo vượt mốc 17%. Trong kỳ họp Chính phủ mới đây thừa nhận, lạm phát rất khó khăn để giữ mức 18%, thậm chí có ý kiến cho rằng có thể lên đến 19%.
Ngân hàng Nhà nước khẳng định lạm phát là gốc để giảm lãi suất, với tình hình lạm phát từ nay đến cuối năm còn tăng, vậy việc giảm lãi suất sẽ như thế nào. Bởi vì, nếu lạm phát tăng lên trong khi lãi suất giảm xuống liệu có còn hấp dẫn tiền vào ngân hàng khi người dân đang quen với lãi suất cao hiện nay. Chính vì thế, không có gì lạ khi vấn đề lãi suất thực dương được đặt ra ở thời điểm này.
Tính toán đơn giản cho thấy, thông thường lãi suất tiết kiệm phải cao hơn lạm phát thì mới thu hút được người gửi tiền vào ngân hàng. Đến tháng 8/2012 lên đến 15% nếu áp dụng trần lãi suất 14% thì tiền gửi của khách hàng trên đã bị âm 1%. Thậm chí, khi lạm phát lên 18 - 19% mà lãi suất giảm thì liệu người tiêu dùng có thể bị thiệt.
Trong phân tích mới đây, lãi suất thực dương chỉ đứng về người gửi tiền mà trong nhiều trường hợp không tạo ra sự chia sẻ gánh nặng chi phí tài chính giữa người đi vay và người cho vay. Điều này có nghĩa là mọi rủi ro bị đẩy về phía người vay nên sẽ không khuyến khích hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu lãi suất âm có thể làm giảm lượng vốn huy động của hệ thống ngân hàng, làm cho thanh khoản của hệ thống này gặp khó khăn nên sẽ không thể làm giảm lãi suất cho vay trên thị trường. Hơn nữa, việc áp dụng chính sách lãi suất thực âm có thể khuyến khích người dân đầu tư quá mức vào các lĩnh vực khác như vàng, chứng khoán, bất động sản và do đó có thể làm cho các thị trường này nóng sốt. Trong tác động ngược chiều không mong muốn, việc áp dụng chính sách lãi suất thực âm có thể làm cho tình trạng lạm phát thêm trầm trọng.
Tuy nhiên, gần đây, các chuyên gia lại có một giải thích khác về vấn đề lãi suất thực dương so với lạm phát. Theo đó, lạm phát thực dương phải tính theo lạm phát kỳ vọng tương lai. Có nghĩa không nên quá phụ thuộc vào lạm phát và lãi suất hiện tại mà phải tính cho lãi suất tương lai và lạm phát tương lai, ít nhất trong 1 năm tới.
Cụ thể, nếu người gửi tiền từ tháng 1/2011 với lãi suất 14%/năm thì cuối năm 2011, lãi suất thực âm. Nhưng, từ tháng 8/2011 đến tháng 8/2012, nếu mỗi tháng lạm phát xoay quanh mức 1% thì lạm phát dự kiến trong 1 năm tới là 12% nên lãi suất ở mức 14%/năm kể từ tháng 8 này vẫn đảm bảo lãi suất thực dương.
Tuy nhiên, người gửi tiền luôn muốn nhận được lãi suất thực tế dương so với lạm phát. Và như vậy, Chính phủ phải tạo ra được niềm tin cho người dân rằng lạm phát sẽ giảm và mục tiêu đề ra sẽ thành hiện thực. Khi đó, mới thuyết phục được người dân và mới có thể ổn định lãi suất trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, với tình hình lạm phát của thời gian qua và mức tăng dự báo trong những tháng cuối năm chắc chắn còn tăng, dù có thể là dưới 1%/tháng thì việc giảm lãi suất vẫn gây cho người gửi tiền, nhất là ngắn hạn 1 - 3 như thời giam qua thì cảm giác thua thiệt vẫn thất rất rõ và sẽ tính toán lại. Và đó, có thể là một trở ngại mà ý chỉ chủ quan hay các điều hành kỹ thuật khó có thể khỏa lấp hết.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Năm nay, tâm lý ngại rủi ro trên thị trường tài chính toàn cầu đã đẩy nhu cầu đối với các tài sản được xem là có độ an toàn cao như vàng, trái phiếu kho bạc Mỹ và đồng Franc Thụy Sỹ tăng giá mạnh. Tuy nhiên, hãng tin Reuters nhận định rằng, những tài sản này đã tăng giá cao đến mức khó có thể còn được xem là “vịnh tránh bão” nữa.
“Nếu không cẩn thận, vấn đề nợ công của Việt Nam có thể sẽ thành rủi ro lớn hơn lạm phát hay tỷ giá trong 5-7 năm tới”, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia Lê Xuân Nghĩa nêu cảnh báo. “Chưa biết là có tiền hay chưa có tiền, cứ biết là hôm nay ký cái đã”, Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh nói về cách ra quyết định đầu tư “kỳ lạ” của một số địa phương. “Bây giờ, chúng ta đang bị trả giá cho vấn đề này”.
Giá vàng tương lai nhích nhẹ trong phiên giao dịch đêm qua (31/8), đưa mức tăng trong toàn tháng 8 lên 12%. Đây là tháng giao dịch tốt nhất của kim loại quý này kể từ tháng 11/2009 tới nay. Tuy nhiên, theo Sunil Kashyap, giám đốc quản lý hãng vốn Scotia ở Hồng Kông, việc xác định xu hướng giá vàng hiện đang gặp khó khăn, bởi gần đây mặt hàng này cũng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu cơ phi truyền thống như các quỹ đầu cơ và cá nhân giàu có.
Muốn đưa lãi suất cho vay về mức 17%-19%/năm như yêu cầu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cần hàng loạt giải pháp đồng bộ, trước hết là giải quyết vấn đề cung tiền.
Không chỉ dừng lại ở việc tăng dự trữ bắt buộc thêm 1%, giữ tỷ giá đến cuối năm biến động tối đa 1%, tới đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) còn siết chặt hơn điều kiện, đối tượng được vay ngoại tệ
Khẳng định "tỷ giá biến động không quá 1% từ nay đến hết năm" của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đầu tuần này khiến nhiều doanh nghiệp vay ngoại tệ vui mừng. Nhưng nhìn tổng quan thì sức ép tỷ giá vẫn còn nguyên và tỷ giá kỳ vọng vẫn chưa thể dẹp bỏ.
Khả năng dự báo lạm phát kém, vay nợ mới trả nợ cũ, thâm hụt ngân sách tăng mạnh so với GPD, đình đốn sản xuất… là những vấn đề khiến kinh tế vĩ mô bất ổn. Nếu không sớm tái cấu trúc nền kinh tế, lạm phát sẽ “bứt phá” vào cuối năm.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.