Khủng hoảng tài chính phương Tây làm lung lay niềm tin của công chúng về khả năng lãnh đạo nhưng cũng tạo ra nhiệm vụ và quyền lực lớn hơn cho NHTƯ.
Kể từ đợt khủng hoảng năm 2007, các ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đã mở rộng quyền hạn của mình trong việc tự khởi xướng các quyết định hay trong các quyết định của chính phủ, vượt ra ngoài các chính sách tiền tệ thông thường.
Các ngân hàng này không chỉ mở rộng những giới hạn thông thường của chính sách tiền tệ bằng cách mua trái phiếu chính phủ và các tài sản khác (xem bảng). Họ còn chịu trách nhiệm cao hơn trong việc theo dõi các ngân hàng và tính bình ổn của hệ thống tài chính. Các nhiệm vụ mới này yêu cầu các chính sách thận trọng vĩ mô mới.
Về bản chất, điều này có nghĩa là các NHTƯ phải để mắt đến bất kỳ nguy cơ có thể xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế. Và những nhiệm vụ cũ về chính sách tiền tệ dần trở nên không mấy dễ dàng để thực hiện. Công việc của NHTƯđang trở thành một cuộc chơi đầy phức tạp.
Những nhiệm vụ mới cũng đem đến những rủi ro mới. Trước đợt khủng hoảng, đã có sự đồng thuận về quyền lực: các NHTƯ nên được điều hành bởi các nhà kỹ trị, không chịu sự can thiệp của chính phủ, theo đuổi một mục tiêu bình ổn giá cả với một công cụ là lãi suất ngắn hạn.
Nhiều nơi đã từ bỏ chế độ giám sát của ngân hàng cho các nhà quản lý khác. Mối liên hệ giữa lãi suất và lạm phát có thể không chính xác, nhưng ít nhất các NHTƯ có nhiều lý thuyết và bằng chứng để đưa ra các chỉ đạo.
Ngược lại, những ảnh hưởng của các chính sách tiền tệ không theo thông lệ, như việc mua trái phiếu, thì hầu như không được biết đến. Phe đồng thuận lập luận rằng với lãi suất gần như zero, nó là cách đúng đắn để giữ dòng tín dụng và ngăn chặn giảm phát. Phía đối lập lại cho rằng điều đó làm hoang phí ngân sách và nguy cơ lại tạo ra khuynh hướng đầu cơ và có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Ổn định tài chính, về quan điểm chinh trị, là một nhiệm vụ không thể chắc chắn so với bình ổn giá cả, theo David Archer của ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), một bộ phận thuộc các NHTƯ.
Trong suốt các đợt tăng giá, các biện pháp thận trọng về vĩ mô như hạn chế cho vay sẽ chỉ khuấy động các cơn giận từ công chúng. Và nếu chúng có thể ngăn chặn khủng hoảng, công chúng cũng sẽ không bao giờ biết đến.
Nhưng nếu khủng hoảng xảy ra, dân chúng với thước ngắm chuẩn xác của mình sẽ đổ tội cho NHTƯ đã không đưa ra hành động sớm hơn. “Mối quan hệ giữa NHTƯ và chính phủ dường như trở nên khó khăn hơn và mang tính chính trị hơn,” Archer nói.
Con đường mà chúng ta đã đi
Về khía cạnh nào đó, các NHTƯ đã trở về với gốc rễ của họ. Các NHTƯ đầu tiên được tạo ra để quản lý công việc tài chính cho quốc chủ và phát hành tiền tệ cho quốc gia.
Điều đó tạo cho các ngân hàng này lợi thế cạnh tranh, một cách tự nhiên trở thành người cho vay đối với các ngân hàng thương mại, đồng thời ngân hàng trung ương trở thành người giám sát đối với các ngân hàng khác.
Sau này, với chính sách tiền tệ, việc quản lý tăng trưởng kinh tế và lạm phát trở thành nhiệm vụ hàng đầu của ngân hàng trung ương. Charles Goodhart, nhà sử học về tiền tệ và thành viên sáng lập Ủy ban chính sách tiền tệ của ngân hàng Anh có ghi lại rằng “Những chức năng vĩ mô về tiền tệ của các ngân hàng trung ương hầu như được ghép vào chức năng giám sát.”
Trong những thập niên trước khủng hoảng, chính sách tiền tệ đã mắc sâu vào bẫy của các quy tắc chuẩn khoa học: việc điều chính khôn ngoan lãi suất ngắn hạn sẽ giữ lạm phát thấp và vì vậy sẽ là phẳng những va đập của chu kỳ kinh tế.
Trong tình hình đó, các NHTƯ được hỗ trợ bởi sự gia tăng của các thị trường hiện đại bằng cách khuếch tán rủi ro sẽ làm cho hệ thống tài chính mau chóng hồi phục. Các NHTƯ và hệ thống quản lý “đã bị ru ngủ trong sự tự mãn,” Janet Yellen, phó chủ tịch FED đã phát biểu vào năm ngoái.
Nhiều NHTƯ đã có trách nhiệm đối với việc ổn định hệ thống tài chính, nhưng họ thực hiện điều đó còn kém. Trong năm 1996, ngân hàng Anh đi tiên phong trong việc báo cáo vấn đề ổn định tài chính; sau 1 thập niên, khoảng 50 NHTƯ và IMF cũng thực hiện theo. Nhưng theo nghiên cứu “Ngân hàng trong tương lai: sự sụp đổ và đi lên của NHTƯ”của Howard Davies và David Green, niềm tin của công chúng vào các ngân hàng trung ương đã sụt giảm nhanh chóng (xem biểu đồ). Điều này nói lên rằng các ngân hàng trung ương đang ngày càng nhận nhiều trách nhiệm về mình hơn.
Với nhiều công việc hơn, NHTƯ cần nhiều công cụ hơn. Những lãi suất ngắn hạn là một phương tiện quá cùn để giải quyết những đe dọa mà hệ thống tài chính có thể đối mặt. Vì vậy, mối quan tâm bấy giờ là chính sách cẩn trọng vĩ mô.
Nếu hiện tượng bong bóng xảy ra đối với chứng khoán hoặc bất động sản đe dọa cả nền kinh tế, tốt nhất nên phẫu thuật nó hơn là đập vào đầu mọi người bằng việc nâng lãi suất.
NHTƯ ở các nước mới nổi từ lâu đã sử dụng công cụ này để kiểm soát tăng trưởng tín dụng và dòng vốn. Ví dụ, họ thay đổi những quy định về tỉ lệ dự trữ hoặc đưa ra các giới hạn về lượng đối với các khoản cho vay của ngân hàng.
Tuy nhiên, NHTƯ ở các nước giàu đã không còn sử dụng các phương tiện này trong nhiều năm nay, vì cho rằng chúng không đem lại hiệu quả hoặc có thể bóp méo tình hình. Ví dụ, FED đưa ra các quy định biên để chế ngự thị trường chứng khoán trong những năm 1990. Nhiều nước đã không cần dùng đến tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
Tây Ban Nha là một trường hợp ngoại lệ đáng chú ý: ám ảnh bởi ký ức của đợt khủng hoảng những năm 1970, năm 2000 ngân hàng Tây Ban Nha bắt đầu yêu cầu các ngân hàng hàng đầu của mình lập ra một phần lợi nhuận của mình để phòng cho những thua lỗ trong tương lai. Điều này không giúp cho hệ thống ngân hàng nước này thoát khỏi những rắc rối hiện tại, nhưng nó cũng khiến cho tình hình bớt nhức nhối hơn.
Những chính sách vĩ mô cẩn trọng yêu cầu một vài thẩm quyền về các công ty và thị trường. Ở Anh, cơ quan dịch vụ tài chính (FSA), nơi nhận trách nhiệm giám sát các ngân hàng từ ngân hàng Anh năm 1998, trực thuộc NHTƯ. NHTƯ có một ủy ban chính sách tài chính, có nhiệm vụ xác định những đe dọa đối với hệ thống tài chính cũng như hệ thống tiền tệ. Cả hai đơn vị này đều thuộc quyền quản lý của chính phủ. Cũng như ủy ban chính sách tiền tệ, ủy ban chính sách tài chính sẽ bao gồm những chuyên gia bên ngoài và các giám đốc NHTƯ.
NHTƯ châu Âu (ECB), trước đây không có vai trò giám sát, giờ trở thành một phần của Hội đồng quản trị rủi ro có hệ thống của châu Âu (the European Systemic Risk Board), gồm các nhà quản lý quốc gia và các giám đốc NHTƯ, và cung cấp đa số các nhân viên và hỗ trợ kỹ thuật.
Trong các nước thành viên, trách nhiệm giám sát của NHTƯ Pháp và Đức đã tăng cao. Những nơi khác trong khu vực châu Âu, ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ đang khuấy động đòi chia quyền giám sát của Credit Suisse và UBS, hai ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ với đơn vị giám sát ngân hàng quốc gia.
Tại Hoa Kỳ, đạo luật Dodd-Frank có hiệu lực từ tháng 6 năm ngoái, đã tạo ra 15 Ủy ban xem xét vấn đề ổn định tài chính (FSOC), đứng đầu là Bộ trưởng bộ Tài chính. Mặc dù FED chỉ giữ 1 ghế nhưng nó là thành viên có ảnh hưởng nhất. NHTƯ sẽ chỉnh đốn bất kỳ công ty nào FSOC thấy rằng quan trọng và có thể bắt ngân hàng đó tăng vốn hoặc tháo bỏ nó. FED đã lập ra bộ phận nghiên cứu và chính sách ổn định tài chính của riêng mình, với 20 nhân viên. Cơ quan này sẽ là nguồn chuyên môn quan trọng cho FSOC.
Tuy nhiên việc lập ra các cơ quan không đồng nghĩa với việc khiến cho các cơ quan này hoạt động hiệu quả. ECB sẽ vẫn phải dựa vào các nhà quản lý quốc gia đối với những thông tin về các công ty cụ thể, và những nhà quản lý ấy tự do lờ đi những lời khuyên của ECB. Các nhà giám sát ngân hàng Hoa Kỳ sẽ phải vượt qua những thói quen ngần ngại chia sẻ thông tin.
Nhưng ngay cả khi các nhà quản lý chia sẻ những gì họ có, thì vẫn có những khoảng cách lớn về những thông tin cần thiết để khiến cho các chính sách mới trở nên có hiệu lực hơn. IMF và ban ổn định tài chính muốn biết nhiều hơn về những chênh lệch về kỳ đáo hạn của tài sản và nguồn vốn của các ngân hàng, mối liên kết giữa các ngân hàng và phần còn lại của hệ thống tài chính, và các công ty tài chính.
(Báo Điện tử Doanh nhân Việt Nam toàn cầu)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com