Theo dự báo của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ chuyển sang tăng trưởng 3,1% vào năm 2010 sau khi đã suy giảm 1,1% năm 2009. Còn WB lại mới dự báo kinh tế thế giới 2010 chỉ tăng trưởng 2,7% sau khi suy thoái 2,2% năm 2009 với cảnh báo khả năng suy thoái kép. Rõ ràng, kinh tế thế giới 2010 còn tiềm ẩn nhiều bất ổn, đặc biệt là những khó khăn trong thương mại do sự phục hồi của chủ nghĩa bảo hộ, biến động tỷ giá hối đoái của các đồng tiền chủ chốt và khủng hoảng nợ do thâm hụt ngân sách của nhiều nước lên cao sau khi ồ ạt kích thích kinh tế trong năm 2009.
Hai ưu tiên trong ngắn hạn
Kiểm soát lạm phát trở thành trọng tâm trong ổn định kinh tế vĩ mô của VN trong nhiều năm qua, song gần đây việc duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế cũng đang nổi lên không kém phần quan trọng. Từ tháng 12/2009, CPI lại tăng 1,38% - mức tăng cao nhất trong cả năm 2009 - đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về khả năng lạm phát cao có thể quay trở lại vào năm 2010. Tuy nhiên, nếu tính quy luật của diễn biến thị trường giá cả được duy trì trong năm 2010 kết hợp với những chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý thị trường giá cả hợp lý thì CPI cả năm có thể ở mức 1 con số.
Tính linh hoạt và tính thị trường của chính sách tiền tệ cần được phát huy để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu then chốt |
Phát huy tính linh hoạt
Nếu chính sách tài khoá “trung tính” trong ngắn hạn và chủ động thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế trong trung dài hạn thì chính sách tiền tệ trở thành công cụ chính sách then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn định vĩ mô. Tính linh hoạt và tính thị trường của chính sách tiền tệ cần được phát huy để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu then chốt này.
Một mặt, tăng tổng tín dụng vẫn đã, đang và sẽ là nhân tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi các kênh tài chính khác cho DN vẫn còn hạn chế. Thực tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN có quan hệ hữu cơ với mở rộng tín dụng.
Mặt khác, mức độ ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát ở VN cũng có quan hệ biện chứng với tốc độ tăng tín dụng tuy có một độ trễ nhất định. Chính vì vậy, không nhất thiết phải kìm giữ tốc độ tăng tín dụng năm 2010 ở mức 25% mà có thể lên mức 30%, song vấn đề quan trọng là hướng nguồn vốn tín dụng tới những khu vực kinh tế thật sự có hiệu quả trong trung và dài hạn, tránh chạy theo hiệu quả kinh tế ngắn hạn (chứng khoán, bất động sản,...) có thể tạo ra “bong bóng” và gia tăng nợ xấu.
Chính sách lãi suất cũng cần được áp dụng linh hoạt và theo cơ chế thị trường. Lãi suất cơ bản, tái chiết khấu và tái cấp vốn được điều chỉnh linh hoạt kết hợp với nghiệp vụ thị trường mở để giải quyết đồng thời hai bài toán, đảm bảo nguồn vốn có “giá cả” hợp lý để DN phát triển sản xuất kinh doanh, ngăn chặn nguy cơ tăng trưởng nóng và kiểm soát được lạm phát. Trong năm 2010 vẫn cần sử dụng lãi suất cơ bản (theo đó là trần lãi suất cho vay) như một công cụ quyết định để kiểm soát tổng tín dụng, thị trường tín dụng ngân hàng (huy động tiền gửi và cho vay) và cả thị trường liên ngân hàng theo đúng các nguyên tắc của thị trường.
Để đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng, nhất là kiểm soát nhập siêu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo các cân đối cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán tổng thể, cân đối cân tiết kiệm đầu tư, cân đối tích luỹ tiêu dùng và quản lý nợ nước ngoài thì chính sách tỷ giá hối đoái giữ vai trò cực kỳ quan trọng.
Biến động thị trường vàng và ngoại tệ năm 2010 có thể còn gay gắt hơn so với năm 2009 nếu chúng ta không chủ động điều hành chính sách tỷ giá hối đoái tốt kết hợp với kiểm soát được thâm hụt thương mại và thâm hụt cán cân thanh toán. Dự kiến với các sức ép mất cân đối kinh tế giữa trong và ngoài nước, năm 2010, giảm giá VND là tất yếu song mức độ và thời điểm điều chỉnh giảm cần đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối và chính sách thương mại, đảm bảo không tạo ra các cú sốc đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, không quá kỳ vọng vào việc giải quyết ngay những mất cân đối vĩ mô đã tích tụ trong khoảng 5 năm gần đây, nhất là chỉ thông qua công cụ như điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Cần một chiến lược tổng thể
Về chính sách quản lý thị trường giá cả cần rút ra bài học về cung cấp và công bố thông tin để đảm bảo ổn định một thị trường nhạy cảm như thị trường lương thực, thực phẩm, giải quyết vấn đề giá một số sản phẩm sữa nhập khẩu,... vừa đảm bảo các nguyên tắc thị trường, vừa bảo vệ được những quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Đồng thời xác lập phương thức và hệ thống các công cụ để Nhà nước can thiệp vào những bộ phận thị trường khi cần thiết. Khi cần thiết, không chỉ can thiệp vào mức tăng giá mà còn can thiệp vào mức giá. Ngoài ra, việc điều chỉnh giá xăng dầu, điện, than, nước sinh hoạt, cước vận tải... cần thận trọng trong quyết định mức độ và thời điểm điều chỉnh để đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm.
Các mục tiêu chủ yếu của năm 2010 (tốc độ tăng trưởng là 6,5%, lạm phát khoảng 7%, nguồn vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 41,5%GDP, kim ngạch xuất khẩu tăng 6% so với năm 2009, bội chi NSNN khoảng 6,2% GDP) có thể đạt được thông qua các biện pháp không mang tính cấp bách, tình thế như gói kích thích kinh tế năm 2009 mà sẽ gắn với chiến lược phát triển tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả hơn.
(Theo Diễn đàn doanh nghiệp)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com