Năm 2009, Ngân hàng Nhà nước đã cùng với các tổ chức tín dụng (TCTD) theo dõi sát diễn biến và dự báo của các nước để chủ động điều hành chính sách tiền tệ. Trong hệ thống các công cụ chính sách đó thì chính sách tín dụng là yếu tố quan trọng nhất bởi tiền phát hành của các Ngân hàng vào lưu thông chủ yếu qua con đường tín dụng.
Ðầu năm 2009, các doanh nghiệp (DN) gặp rất nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các TCTD sử dụng vốn lưu động và vốn tự có để cho vay, coi trọng đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất, tăng cường xuất khẩu. Với mặt bằng lãi suất cho vay 10,5%/ năm và nhà nước hỗ trợ 4% theo chính sách kích cầu đã thúc đẩy các luồng vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Các TCTD đã mở rộng mạng lưới các điểm giao dịch để bảo đảm thuận tiện cho người dân đi gửi tiền và vay vốn, và làm các dịch vụ khác. Bằng nhiều hình thức khuyến khích, cạnh tranh đã thu hút hàng trăm nghìn tỷ đồng tiền nhàn rỗi của các tầng lớp nhân dân vào quỹ ngân hàng, đồng thời đẩy mạnh cho vay các ngành kinh tế quốc dân nhằm thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Thị trường tín dụng phát triển mạnh mẽ ở tất cả các ngân hàng với nhiều phương thức cung ứng vốn khác nhau, ngân hàng nào cũng muốn mở rộng thị phần để tăng doanh số hoạt động.
Nhìn lại năm 2009, số vốn đầu tư hàng trăm nghìn tỷ đồng đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ðặc biệt là cho vay hỗ trợ lãi suất với dư nợ hơn 430 nghìn tỷ đồng đã giúp hàng nghìn DN và hộ kinh doanh giảm chi phí vay vốn, giảm giá thành sản phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh tạo việc làm, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Ðối với các DN Nhà nước cùng với các nguồn vốn khác, vốn tín dụng đã góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án của nhà nước mà Chính phủ phê duyệt. Các ngân hàng thương mại đã bố trí đủ vốn để giải ngân cho các hợp đồng tín dụng đã ký kết đối với các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản vay của các DN gặp khó khăn do không tiêu thụ được sản phẩm hoặc các tài sản do vốn ngân hàng cho vay nhưng không phát huy hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, còn nhiều vướng mắc trong hoạt động của tín dụng ngân hàng, đó là thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp gây tốn kém công sức, thời gian, nhiều khi làm chậm hoặc mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quan hệ với ngân hàng, hồ sơ thủ tục vay vốn ở một số ngân hàng cơ sở vẫn còn rườm rà, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân còn chậm, gây khó khăn cho việc vay vốn ngân hàng. Trong điều kiện các doanh nghiệp khó vay vốn ngân hàng thì thị trường "tín dụng đen" hoạt động khá náo nhiệt, không ít những trường hợp hộ kinh doanh phải vay ngoài với lãi suất cao lên đến 4,5%/tháng.
Trong những năm tới, chính sách tín dụng ngân hàng vừa phục vụ tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Vì vậy, cần tập trung huy động thu hút mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng để cho vay phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nhiều của cải, vật chất hàng hóa cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của toàn xã hội. Tín dụng ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề cụ thể dưới đây:
Một là, tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng với phương châm huy động vốn được đến đâu cho vay đến đó để thực hiện mục tiêu duy trì sự ổn định tiền tệ, nâng cao sức mua của đồng tiền, thực hiện kiềm chế lạm phát, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2010 đối với nền kinh tế tăng khoảng 25% so với cuối năm 2009, lãi suất và tỷ giá được điều hành ở mức hợp lý phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, bảo đảm ổn định hoạt động và an toàn hệ thống. Ðể thực hiện được mục tiêu trên cần khống chế chặt chẽ hạn mức dư nợ đối với các TCTD.
Hai là, do nguồn vốn có hạn nên cần tập trung vào những khách hàng sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, tài chính trong sạch, thu hút và sử dụng được nhiều lao động, hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước và nộp các khoản đóng góp khác. Các TCTD chỉ được dùng lãi suất thỏa thuận để cho vay các đối tượng trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình của khách hàng vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, không được dùng lãi suất thoả thuận để cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán, vàng bạc đá quý.
Ba là, mở rộng tín dụng về nông thôn, thị trường vùng sâu, vùng xa để phát triển kinh tế hàng hóa cùng với vốn của ngân hàng chính sách xã hội, tín dụng đối với các hộ nông dân nghèo cần tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, giúp người nghèo tận dụng cơ hội, chính sách của nhà nước. Cho vay để chuyển đổi cơ cấu lao động, đào tạo nghề, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm bằng hệ thống các giải pháp kết hợp với chính sách của nhà nước với kinh nghiệm của người dân để nâng cao sức sản xuất, nhanh chóng cải thiện đời sống ở khu vực nông thôn.
Thứ tư là, tăng cường kiểm tra chặt chẽ các khoản cho vay ở ngân hàng cơ sở, nêu cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ðổi mới hình thức và phương pháp kiểm tra chấp hành chế độ tín dụng và kiểm tra sử dụng vốn vay ngay từ quy chế điều hành của cơ quan quản lý là Ngân hàng Nhà nước. Việc thanh tra, kiểm tra không chỉ có cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng mà các vụ nghiệp vụ khác có liên quan cũng có quyền thanh tra việc chấp hành chế độ theo định kỳ để rút ra những vấn đề được, chưa được nhằm bổ sung và sửa đổi cơ chế cho phù hợp.
Thứ năm là, trong quản trị điều hành cần nâng cao năng lực lãnh đạo của người đứng đầu đơn vị, coi trọng chất lượng và hiệu quả, giảm bộ máy quản lý trung gian để tăng cường cán bộ trẻ về cơ sở thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ ở Ngân hàng Nhà nước Trung ương để chuyển động thật sự theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực và tham nhũng.
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Năm 2010, nhiều khả năng nền kinh tế vượt qua giai đoạn điều chỉnh và tăng trưởng trở lại. Cùng với nền kinh tế, thị trường BĐS được dự báo là có thể phục hồi.
Năm 2010, chính sách tiền tệ có thể sẽ thắt chặt vì những mục tiêu mới. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành cung ứng tiền chặt chẽ, thận trọng, phù hợp...
- Ba năm trước, cảnh báo rủi ro từ nợ dưới chuẩn của ông Roubini cũng như lời thú nhận của giám đốc ngân hàng trung ương châu Âu rằng giới ngân hàng chưa hiểu hết rủi ro thật sự của sản phẩm tài chính phái sinh như hai bông tuyết nhỏ bé, chìm ngay trong làn tuyết dày của Davos. Lần này, theo thời báo Tài chính (Anh), chủ đề này phản ánh nhu cầu cần phải thay đổi trong quản lý ngân hàng, từ sản phẩm phái sinh cho tới bán khống.
Việc không ít doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng do không được chấp nhận bảo đảm tiền vay bằng động sản là một thực trạng đáng tiếc, làm “đóng băng” một nguồn lực rất lớn trong nền kinh tế.
Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần...
Các thành viên hội đồng quản trị của một ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM được huy động họp bất thường. Họ được thuyết trình về đề án bất động sản mà chủ đầu tư của nó là một trong những cổ đông lớn có tiếng nói quyết định của chính ngân hàng đó. Với triển vọng lợi nhuận của dự án bất động sản, chủ đầu tư đã thuyết phục được lãnh đạo ngân hàng đổ vốn cho nó.
Hiện, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, nguy cơ suy thoái kinh tế cùng với cuộc khủng hoảng lần thứ 2 của nền kinh tế toàn cầu có thể đang đến rất gần.
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM vừa tổ chức cuộc họp tổng kết hoạt động ngành ngân hàng trên địa bàn năm 2009 vào ngày 26.1.2010. Ông Hồ Hữu Hạnh, giám đốc ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM cho biết tính đến 31.12.2009, tổng huy động vốn năm 2009 các ngân hàng là 603.353 tỉ đồng, tăng 30,9%; tổng dư nợ là 559.855 tỉ đồng, tăng 36,6% so với năm 2008.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.