Dây chuyền may áo giắc-két xuất khẩu của Công ty may Việt Tiến.
- Cuối quý IV năm 2008 đến nay, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn TP Hồ Chí Minh chưa có đơn hàng xuất khẩu cho năm 2009. Ðã xảy ra tình trạng phía đối tác cắt giảm hợp đồng ngay trên đơn hàng đang sản xuất. Số lượng đơn hàng, giá gia công hiện đã giảm so với quý III năm 2008. Tuy nhiên, vẫn có những doanh nghiệp xuất khẩu giữ được thị trường ngoài nước, ổn định đời sống người lao động đồng thời tìm cách mở rộng thị trường trong nước.
Những ngày này các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu đang phải đàm phán với đối tác các hợp đồng với giá gia công giảm từ 10 đến 20% thậm chí 50%. Tuy nhiên, khi đến Công ty CP giày Thái Bình, nơi có 15 nghìn công nhân, không khí sản xuất ở các phân xưởng vẫn hết sức khẩn trương. Tổng Giám đốc Công ty CP giày Thái Bình kiêm Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam (LEFASO) Nguyễn Ðức Thuấn cho biết, năm 2008 ngành da giày Việt Nam liên tục gặp nhiều khó khăn, khách quan thì do EU áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da của Việt Nam, chủ quan là do doanh nghiệp trong nước không thống nhất trong tính toán chi phí đầu vào, chi phí sản xuất, hồ sơ kinh doanh không ổn định và ít được theo dõi liên tục nên ít có thông số chứng minh sự làm ăn ngay thẳng, nhất là đối với nhiều doanh nghiệp da giày nhỏ lẻ. Tuy nhiên, trong cái khó nhiều doanh nghiệp đã chuyển hướng sản xuất các loại giày thể thao thời trang cho giới trẻ, phụ nữ và trẻ em, vì vậy toàn Hiệp hội đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 4,8 tỷ USD, vượt 20% so với năm 2007. Năm 2009, LEFASO phấn đấu giữ kim ngạch xuất khẩu bằng năm 2008, do giữ cho được các hợp đồng lớn nhằm tạo công ăn việc làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ổn định đời sống hàng trăm nghìn lao động, đồng thời tạo điều kiện để các làng nghề phát triển. Mặt khác, LEFASO đang yêu cầu các doanh nghiệp từng bước chiếm lĩnh thị trường giày dép trong nước phục vụ nhu cầu của 80 triệu người dân.
Công ty CP giày Thái Bình có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước (100 triệu USD/năm) đã hoàn thành kế hoạch sản xuất năm 2008 và bắt đầu thực hiện kế hoạch quý I năm 2009 ngay từ những ngày đầu năm. Theo Tổng Giám đốc Nguyễn Ðức Thuấn, cho đến nay sản xuất của doanh nghiệp vẫn ổn định nhờ nhiều năm trước công ty chủ động đầu tư hơn năm triệu USD đổi mới toàn bộ dây chuyền sản xuất, nghĩa là cả chuỗi công nghệ máy móc để sản xuất ra đôi giày từ khuôn mẫu, đế, công nghệ pha chế... sản xuất đến chào hàng và xuất khẩu. Bộ phận thiết kế mẫu gồm 400 kỹ sư, mỗi mùa thiết kế 35 nghìn mẫu các loại giày đi trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông theo mốt của nước nhập khẩu. Vì vậy, sản phẩm của Công ty Thái Bình xuất khẩu trực tiếp qua bốn nhà nhập khẩu lớn của Mỹ, Nhật Bản nên chi phí không lớn. Công ty còn đầu tư riêng mạng in-tơ-nét đường truyền rộng liên tục cập nhật các mốt giày mới nhất cũng như ký hợp đồng sớm, nhanh với cam kết thực hiện nhanh, an toàn hợp đồng đã ký. Do đơn hàng lớn, công nhân đông, việc dự báo giá cả nguyên liệu, vật tư nhập khẩu được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Hằng năm, công ty chi đến 1.000 tỷ đồng cho việc nhập khẩu vật tư, nguyên liệu trong khi đầu năm giá nguyên, phụ liệu tăng 30%, cuối năm giá hạ 30%, nếu không làm tốt việc dự báo giá thì sẽ rất khó khăn cho việc duy trì sản xuất, kinh doanh. Ở đây đã thành thông lệ, năm nào cũng dành 10 tỷ đồng cho quỹ dự phòng rủi ro cũng như trích 5 đến 7% tổng doanh thu vào quỹ ổn định giá.
Ngoài việc tìm kiếm hợp đồng, cải tiến mẫu mã, chủ động đầu vào và đầu ra, Công ty CP giày Thái Bình còn quan tâm đến đời sống công nhân. Công ty mở hai siêu thị công đoàn (mở cửa từ 16 giờ (giờ tan ca) đến 21 giờ) kinh doanh chủ yếu thực phẩm gắn với bữa ăn như rau xanh, cá, thịt, mắm, muối, gạo, xà-phòng, dầu gội đầu... bán cho công nhân rẻ hơn giá thị trường. Chị Lê Thị Huyền Trang, công nhân bao bì cho biết, một kg rau xanh ở siêu thị này rẻ hơn bên ngoài hai đến ba nghìn đồng, chục trứng gà, vịt rẻ hơn bên ngoài ba nghìn đồng, một kg thịt rẻ hơn bên ngoài bảy đến tám nghìn đồng. Sắp tới, công ty sẽ mở thêm một số điểm bán lẻ bằng xe đẩy phục vụ di động cho công nhân tại ba cổng khác của hai nhà máy.
Ở các doanh nghiệp dệt may thuộc Tập đoàn Dệt - may Việt Nam, các đơn hàng xuất khẩu cũng đang bị thu hẹp từ 10 đến 20% do ảnh hưởng suy giảm kinh tế, việc duy trì việc làm cho người lao động được Ban Giám đốc Tập đoàn cũng như công đoàn hết sức quan tâm. Nhiều doanh nghiệp cho biết chưa tăng doanh thu và đầu tư mở rộng mà phải tập trung ổn định sản xuất để tồn tại, nên doanh nghiệp phải lo cả xuất khẩu cũng như việc mở rộng thị trường trong nước. Theo Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt - may Việt Nam Vũ Ðức Giang, năm 2008, tập đoàn nỗ lực giữ được tăng trưởng xuất khẩu, năm 2009 ngành sẽ đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại các thị trường mới như Trung Ðông, châu Phi, thị trường các nước Ðông Âu cũ để giảm áp lực của thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. Các doanh nghiệp sẽ nỗ lực sản xuất, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu bằng đầu tư đổi mới khâu thiết kế, kiểu dáng, tạo mẫu sản phẩm. Việc Việt Nam vừa ký Hiệp định Thương mại song phương với Nhật Bản cũng là điều kiện tốt để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Năm 2009, Tập đoàn Dệt - may sẽ mở thêm 20 siêu thị tạo điều kiện để các doanh nghiệp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Tổng Giám đốc Công ty May CP Sài Gòn 3 Phạm Xuân Hồng cho biết, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của công ty đạt 85 triệu USD, với doanh thu hơn 1.000 tỷ đồng, cổ tức tăng 20%. Ðạt được kết quả như vậy vì nhiều năm nay công ty tạo ra nhiều phong trào thi đua như: Tiết giảm chi phí vật tư, nguyên liệu, điện. Hằng tháng, hằng quý tiến hành sơ kết, tổng kết, nếu vượt chỉ tiêu năng suất chất lượng, người lao động sẽ được khen thưởng thích đáng. Cũng nhờ chất lượng sản phẩm ổn định, lại thường xuyên tạo điều kiện để nhà nhập khẩu thấy có lợi khi đặt hàng với May Sài Gòn 3 nên năm 2008, mặc dù thị trường luôn có biến động song các đối tác khách hàng không giảm, và không hủy đơn hàng mà cùng nhau bàn bạc chia sẻ khó khăn. Năm 2009, May Sài Gòn 3 dự kiến kim ngạch xuất khẩu, tổng doanh thu bằng năm 2008, nhưng lợi nhuận chỉ bằng 80% so với năm 2008. Quý I-2009, công ty đang tích cực thực hiện tốt các đơn hàng xuất khẩu ngay từ đầu năm.
Tổng Giám đốc Công ty May Việt Tiến, đơn vị dẫn đầu cả về xuất khẩu, doanh thu, sản lượng cho biết: Năm 2008, May Việt Tiến ký được nhiều hợp đồng lớn, thương hiệu Việt Tiến được nhiều nhà nhập khẩu tin cậy, cho nên kim ngạch xuất khẩu đạt 173 triệu USD, thu nhập của công nhân ở công ty mẹ đạt 2,8 triệu đồng/tháng. Năm 2008 cả doanh thu, xuất khẩu lợi nhuận vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng 10%, trong đó thị trường trong nước đạt doanh thu khá cao 400 tỷ đồng. Năm 2009, May Việt Tiến phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu lên 190 triệu USD. Quý I năm 2009, Tổng công ty đang tích cực hoàn thành sớm các đơn hàng xuất khẩu theo đúng thời hạn, đồng thời tiếp nhận và giải quyết việc làm cho 500 công nhân mất việc làm ở một doanh nghiệp của thành phố. Năm 2009, Việt Tiến sẽ đưa ra thị trường các sản phẩm cao cấp như Santiaro và Manhhatan, đồng thời sản xuất đại trà nhiều sản phẩm có giá cả phù hợp với đối tượng công chức, bình dân.
Không chỉ lo giữ thị trường xuất khẩu ổn định, ngày 4-1, Công ty CP dược phẩm SAVI (100% vốn đầu tư trong nước) chính thức đưa nhà máy số 1, kho và tòa nhà điều hành có tổng vốn đầu tư 100 tỷ đồng đi vào hoạt động. Nhà máy dược phẩm số 1 điều khiển bằng thiết bị tự động, chuyên sản xuất các loại thuốc đặc trị như tim mạch, tiểu đường, thần kinh, kháng sinh thay thế các loại thuốc ngoại nhập với chất lượng không thua kém, đang được một số bệnh viện trong nước dùng thử nghiệm. Tất cả các loại thuốc sản xuất cũng như phân xưởng sản xuất đều được các chuyên gia dược phẩm nước ngoài theo dõi và chia sẻ trách nhiệm. Còn ở Công ty CP sữa Việt Nam doanh nghiệp hàng đầu về sản xuất sữa và các sản phẩm từ sữa vẫn giữ được tăng trưởng cả về doanh thu, xuất khẩu với lợi nhuận cao. Theo Tổng Giám đốc Công ty CP sữa Việt Nam lúc này thị trường nội địa quan trọng hơn cả xuất khẩu bởi sức mua lớn, lợi nhuận ổn định vấn đề là chất lượng sản phẩm phải được các cơ sở sản xuất coi trọng hàng đầu.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Theo Bộ Công thương, dự báo năm 2009, do giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào của 4 mặt hàng chủ chốt là sắt thép, phôi thép, phân bón, xăng dầu giảm mạnh, từ 30% đến 50% (ước giảm theo giá của 4 mặt hàng này khoảng 6 tỷ USD) so với năm 2008 làm cho trị giá nhập khẩu giảm nhiều mặc dù số lượng có thể tăng nhẹ.
Các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản và EU đang lâm vào suy thoái. Một trong những lĩnh vực được Chính phủ chủ trương kích cầu đầu tư trong năm nay là các sản phẩm xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu cao, có nhiều tiềm năng.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, trong thông điệp đầu năm 2009 đã khẳng định rằng, mở rộng thị trường nội địa, tăng cường nội tiêu (với cả sản xuất và tiêu dùng) không chỉ là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, mà phải là hướng phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bộ Công Thương vừa đưa ra dự báo xu hướng xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực trong năm 2009 với nhiều sự thay đổi…
Bộ Công thương đánh giá, tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 phụ thuộc phần lớn vào nhóm mặt hàng công nghiệp chế biến, bởi nhóm khoáng sản và nông, lâm, thuỷ sản sẽ bị sụt giảm kim ngạch.
Hà Nội - Ông Nguyễn Cẩm Tú, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã nhấn mạnh như vậy khi trả lời phỏng vấn báo chí trước các khả năng khai thác thị trường trong nước của các nhà phân phối bán lẻ nước ngoài khi thị trường dịch vụ phân phối mở rộng theo lộ trình cam kết WTO.
Đánh giá của Bộ Công Thương cho thấy năm 2009 sẽ là năm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ phải vượt qua những khó khăn lớn.
“Thị trường mở rộng khiến nhiều ngành hàng và dịch vụ đối mặt với cạnh tranh” - Nhận định của các chuyên gia tại hội thảo “Hai năm Việt Nam gia nhập WTO- đánh giá tác động hội nhập kinh tế”, diễn ra ngày 2/1 tại Hà Nội.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....