Các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản và EU đang lâm vào suy thoái. Một trong những lĩnh vực được Chính phủ chủ trương kích cầu đầu tư trong năm nay là các sản phẩm xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu cao, có nhiều tiềm năng.
Tuy nhiên, Ngân hàng thế giới dự báo, lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường thế giới năm 2009 này sẽ giảm 2,1% so với năm trước, riêng tại các nước đang phát triển, tăng trưởng xuất khẩu sẽ chậm lại còn 3% so với mức tăng trung bình 15%/năm trong suốt 5 năm qua.
Cần nắm rõ thông tin về thị trường khi xuất khẩu:
Hiện nay, tinh bột sắn xuất khẩu sang Trung Quốc đang bị tồn đọng tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc, chỉ có thể được xuất khẩu một cách nhỏ giọt. Hiện tượng này cũng xảy ra đối với một số hàng xuất khẩu của Việt Nam như: dưa hấu, cau tươi, vải thiều, cao su... Chuyện này cũng từng xảy ra đối với một số hàng hoá ở thị trường nước ngoài khác. Nguyên nhân quan trọng là doanh nghiệp chúng ta không nắm được thông tin về thị trường mà mình vẫn xuất hàng, kể cả những thông tin về kế hoạch nhập khẩu của đối tác, nhu cầu nhập khẩu cũng như tiến độ nhập khẩu trong từng giai đoạn.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là chính thông tin về thị trường trong nước cũng không rõ ràng. Lẽ ra những thông tin chung về khả năng sản xuất, cung ứng của doanh nghiệp trong nước cũng như khả năng giao hàng trong từng thời điểm là những thông tin cơ bản nhất các doanh nghiệp phải biết, các cơ quan quản lý ngành và các Hiệp hội ngành hàng phải biết để điều hành. Tiếc thay, cho đến nay những thông tin ấy dường như vẫn quá xa vời. Và hậu quả là hàng loạt nông sản cứ thường xuyên ế hàng, tồn đọng.
Năm nay, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu của cả nước đã được Quốc hội giảm xuống còn 13% so với năm cũ thay vì mức tăng 19% dự kiến ban đầu. Tuy nhiên, 13% vẫn là mức mà các chuyên gia phân tích thị trường cho là rất khó, nếu không có những giải pháp đột phá và kịp thời thì khó mà đạt được. Tăng trưởng xuất khẩu tại các nước đang phát triển được Ngân hàng thế giới dự báo chỉ còn 3% so với mức tăng trung bình 15%/năm trong suốt 5 năm qua. Nhìn vào hoạt động trong nước, cũng thấy khá rõ tác động của tình hình thế giới.
Ở Hải Dương, một doanh nghiệp tư nhân lâu nay vẫn xuất vài nghìn tấn lợn sữa sang thị trường Hồngkông, Đài Loan và một số thị trường khác, nay cho biết đã vài tháng qua phải giảm mạnh thu mua lợn và giảm mạnh công suất dây chuyền cấp đông cho hàng xuất khẩu vì các thị trường lớn đã gần như ngừng nhập hàng. Hậu quả kèm theo là cả một mạng lưới người chăn nuôi tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ đang cung cấp lợn sữa cho doanh nghiệp này bị ảnh hưởng.
Một số doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cũng cho biết: nhiều khách hàng kể cả khách hàng truyền thống đã huỷ hợp đồng nhập hàng hoặc giãn nhập hàng trong năm nay, do nhu cầu giảm xuống. Nhiều nhà máy tại các khu công nghiệp phía Nam đã buộc phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, nhiều công nhân phải nghỉ việc cầm chừng. Đấy chính là biểu hiện dễ nhận thấy nhất của suy thoái kinh tế toàn cầu tác động vào thị trường trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế, hàng rào thuế quan được bãi bỏ ở mức độ sâu rộng nhưng hàng rào phi thuế quan lại được dựng lên ngày càng tinh vi hơn. Có nghĩa là khi thị trường thế giới mở ra rộng lớn hơn thì kèm đó cũng thắt chặt hơn với từng chủng loại sản phẩm hàng hoá bởi những quy định ngặt nghèo hơn về chất lượng, quy cách, chủng loại sản phẩm.
Doanh nghiệp giỏi vẫn tìm ra thị trường
Các thị trường xuất khẩu lớn của hàng hoá Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản và EU thì nay chính các thị trường này đang lâm vào suy thoái. Trong khi đó, năm nay hàng giày dép của ta vào EU không còn được hưởng ưu đãi thuế GSP nữa trong khi với thị trường Mỹ hàng dệt may Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch, còn hàng đồ gỗ thì bị thắt chặt hơn do yêu cầu chứng nhận xuất xứ gỗ rừng trồng.
Tuy nhiên, những điều kiện khó khăn lại là cơ hội thể hiện bản lĩnh và tài năng của từng doanh nghiệp, doanh nhân. Trước sự giảm sút của thị trường nhập khẩu do tác động của suy thoái kinh tế, trước những biện pháp thắt chặt thêm của thị trường truyền thống, nhiều doanh nghiệp năng động vẫn đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu. Doanh nghiệp giỏi vẫn sáng tạo ra được thị trường tiêu thụ mới bằng những sản phẩm và giải pháp khác nhau. Như với thị trường Mỹ, một số doanh nghiệp đã bắt đầu tăng nguồn cung cho tầng lớp người tiêu dùng có nhu cầu hàng hoá giá rẻ trong điều kiện buộc phải thắt chặt hơn chi tiêu.
Nhiều doanh nghiệp cũng chia sẻ rằng thời điểm hiện nay thị trường châu Phi đang nhu cầu lớn về hàng hoá, là thị trường khá dễ tính, ít rào cản kỹ thuật và thuế quan, nhưng phải tìm được giải pháp thanh toán hợp lý. Với nhiều thị trường khác, nhiều mặt hàng xuất khẩu sẽ khó khăn hơn, nhưng cũng có rất nhiều mặt hàng ngỡ như nhỏ nhặt nhưng lại có khả năng tăng trưởng tốt. Hàng nhựa vào các thị trường hầu như đều có mức thuế thấp hơn hoặc bằng với các sản phẩm cùng loại của nước khác trong khi đây cũng là thế mạnh của các doanh nghiệp nước ta. Các sản phẩm vali, túi xách, ôdù, các sản phẩm từ cao su, gang thép hay dây điện và cáp điện cũng đều là những mặt hàng có thị trường tốt và điều kiện xuất khẩu cũng khá thuận lợi.
Nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đã và đang được đề xuất hoặc áp dụng, như tạo điều lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng phát triển, giảm lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu, bổ sung danh mục mặt hàng và lĩnh vực được vay vốn đầu tư sản xuất xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng đối với mặt hàng gạo và một số nông sản khác, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm và tăng năng lực cạnh tranh. Trong điều kiện kinh tế suy thoái, thị trường thế giới ngày càng khó khăn, khả năng rủi ro trong kinh doanh cao hơn rất nhiều so với trước.
Doanh nghiệp dù năng động nhưng cũng phải rất thận trọng. Lúc này, ngoài những giải pháp hỗ trợ đang được Chính phủ thực hiện, thì vai trò của các hiệp hội ngành hàng phải được thể hiện hơn lúc nào hết trong công tác thông tin cho doanh nghiệp và điều hành sự đoàn kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp.
Một kênh thông tin khác rất hiệu qua mà các doanh nghiệp lâu nay vẫn bỏ qua, nay cần được phát huy hơn là các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Đây là đầu mối quan trọng có thể biết và cung cấp thông tin chính xác về khả năng của các doanh nghiệp nước ngoài, giúp doanh nghiệp trong nước giảm được rủi ro khi đàm phán và ký các hợp đồng. Tuy nhiên, có lẽ có một nguyên tắc muôn thuở nhưng không bao giờ cũ là chính doanh nghiệp phải tạo ra được sản phẩm mới cho thị trường cũ cũng như tìm ra thị trường mới cho sản phẩm cũ.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, trong thông điệp đầu năm 2009 đã khẳng định rằng, mở rộng thị trường nội địa, tăng cường nội tiêu (với cả sản xuất và tiêu dùng) không chỉ là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, mà phải là hướng phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bộ Công Thương vừa đưa ra dự báo xu hướng xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực trong năm 2009 với nhiều sự thay đổi…
Bộ Công thương đánh giá, tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 phụ thuộc phần lớn vào nhóm mặt hàng công nghiệp chế biến, bởi nhóm khoáng sản và nông, lâm, thuỷ sản sẽ bị sụt giảm kim ngạch.
Hà Nội - Ông Nguyễn Cẩm Tú, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã nhấn mạnh như vậy khi trả lời phỏng vấn báo chí trước các khả năng khai thác thị trường trong nước của các nhà phân phối bán lẻ nước ngoài khi thị trường dịch vụ phân phối mở rộng theo lộ trình cam kết WTO.
Đánh giá của Bộ Công Thương cho thấy năm 2009 sẽ là năm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ phải vượt qua những khó khăn lớn.
“Thị trường mở rộng khiến nhiều ngành hàng và dịch vụ đối mặt với cạnh tranh” - Nhận định của các chuyên gia tại hội thảo “Hai năm Việt Nam gia nhập WTO- đánh giá tác động hội nhập kinh tế”, diễn ra ngày 2/1 tại Hà Nội.
Đó là ý kiến của nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương Trương Đình Tuyển trong buổi Hội nghị “Hai năm VN gia nhập WTO – Đánh giá tác động hội nhập kinh tế quốc tế” được tổ chức vào hôm nay (2/1), tại Hà Nội.
Báo cáo cập nhật của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, nhập siêu năm 2008 của Việt Nam khoảng 17 tỷ USD, bằng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn năm 2007 cả về giá trị và tỷ lệ so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....