Trong những tháng đầu năm, nhập siêu vẫn tiếp tục gia tăng. Kiềm chế nhập siêu đang là một nhiệm vụ cấp bách. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, vì nhiều lý do, cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát.
Bất lợi - nhìn từ hai chiều xuất, nhập khẩu
Theo thống kê của Bộ Công thương, kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng cần phải kiểm soát (nhập khẩu) trong tháng 2 có mức tăng tới 46,8% so với cùng kỳ năm ngoái dù giá trị tuyệt đối mới đứng ở mức 720 triệu USD; nhóm hàng phải hạn chế có kim ngạch nhập khẩu là 1,38 tỷ USD, mức tăng 70,5%. Điều đáng nói là nhóm hàng cần thiết nhập khẩu lại chỉ tăng 35,1%, thấp hơn hai nhóm hàng trên. Cũng theo Bộ Công thương, giá cả nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2009 là một trong những nguyên nhân khiến kim ngạch nhập khẩu tăng cao, trong khi xuất khẩu lại chưa được như mong đợi, nhất là về giá trị. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 2 ước đạt 3,9 tỷ USD, giảm 23,2% so với tháng 2- 2009.
|
Bốc xếp hàng hóa tại cảng Cát Lái. Ảnh: Anh Thư |
Theo các chuyên gia dự án Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn 3 (MUTRAP III), hiện tại năng lực xuất khẩu của Việt Nam đang đối mặt với nhiều rào cản như chưa thực sự hội nhập vào chuỗi cung ứng của khu vực, giá trị gia tăng thấp, dễ bị tổn thương và tập trung cao vào một số mặt hàng xuất khẩu chính, quy mô xuất khẩu thấp… Trong khi đó, những yếu tố tác động đến đòi hỏi nhập khẩu cao của Việt Nam là quá trình sản xuất để xuất khẩu vẫn đòi hỏi nguồn nhập khẩu (công nghệ, nguyên liệu...) lớn, sự bất ổn của giá cả hàng hóa trên thế giới, hoạt động đầu cơ, thuế suất thấp và những hệ quả tất yếu của việc gia nhập WTO cũng như ký kết các hiệp định thương mại song phương…
Có thể áp dụng các biện pháp hạn chế
Theo các điều khoản về cán cân thanh toán của WTO, các nước thành viên có quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu với những điều kiện nhất định nhằm bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán (BOP). Trong trường hợp các nước đang phát triển, biện pháp này còn để bảo đảm mức dự trữ đủ để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế. Việc mở cửa nền
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là gia nhập WTO và tham gia vào các hiệp định thương mại tự do đã làm gia tăng nhập khẩu. Nếu nhập khẩu tăng làm nảy sinh những vấn đề mới cho nền kinh tế trong nước thì Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu, miễn là phù hợp với luật pháp trong nước và các cam kết quốc tế (WTO, FTA và hiệp định song phương), bao gồm: tăng thuế suất lên mức thuế cam kết, áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống đối kháng, xem xét áp dụng Điều XXVIII của GATT năm 1994 (sửa đổi biểu cam kết thuế) để đàm phán lại các nhượng bộ về thuế quan khi gia nhập WTO.
Câu hỏi đặt ra là việc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán liệu có lợi bất cập hại?
"Cân đong, đo đếm" Việc kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu là cần thiết bởi vừa đạt được mục tiêu giảm nhập siêu vừa tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước vươn lên chiếm lĩnh thị trường nội địa, sản xuất trong nước có điều kiện giành thêm giá trị gia tăng. Nhưng chính những yếu kém nội tại của nền công nghiệp trong nước vẫn chưa được khắc phục mới là nguyên nhân chủ yếu làm cho việc kiểm soát nhập siêu chưa đạt được kết quả như mong đợi.
|
Ô tô nhập khẩu nhiều dẫn đến tình trạng nhập siêu tăng. Ảnh: Viết Thành |
Tuy nhiên, theo ông Peter Naray, chuyên gia của MUTRAP, các vấn đề của Việt Nam chưa tới mức nghiêm trọng và vẫn có thể kiểm soát được. Vì nhiều lý do, cán cân thanh toán của Việt Nam chưa bị coi là trong tình trạng báo động. Thứ nhất, các món nợ ngắn hạn có thể được trả đúng hạn. Mức độ dự trữ hiện nay cao hơn so với các năm trước, vả lại do có ít yêu cầu trả các khoản nợ nhỏ ngắn hạn nên Việt Nam không có thúc bách lớn cần phải dự trữ cả về ngắn hạn và trung hạn. Thứ hai, các dòng vốn quốc tế được dự báo sẽ trở lại xu thế như trước đây khi nền
kinh tế thế giới trở nên khởi sắc hơn. Điều quan trọng là Việt Nam vẫn giữ được niềm tin đối với nền kinh tế, bảo đảm giảm thiểu sự di chuyển dòng vốn. Việc thông qua các biện pháp hạn chế thương mại để khắc phục tình trạng thâm hụt hiện nay, bắt đầu từ hạn chế nhập khẩu cho đến tăng thuế quan, rất có thể là giải pháp bất lợi cho nền kinh tế. Vì vậy, chỉ nên coi đây là giải pháp cuối cùng.
Trong khi đó, Việt Nam có thể xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu cao về nhập khẩu của một số nước. Áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ làm mất tính cạnh tranh trong xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, việc thay đổi chính sách thương mại có thể dẫn đến tình trạng một số dự án đầu tư có vốn trực tiếp nước ngoài sẽ rút về hoặc đóng băng vì những dự án này cần nhập khẩu cho đầu vào hoặc công nghệ. Đồng thời, những biện pháp như vậy còn có thể gây mất lòng tin của nhà đầu tư, dẫn đến tình trạng di chuyển vốn và tạo ra áp lực làm mất giá đồng tiền.
Nhìn nhận về viễn cảnh kinh tế và tầm nhìn chính sách Việt Nam 2010, TS Võ Trí Thành cho rằng, cần phải tính đến nhiều yếu tố như việc can thiệp của chính sách vĩ mô trong giai đoạn của khủng hoảng và rút lui ra khỏi khủng hoảng như thế nào? Vấn đề mất cân đối có mang tính chất bền vững không? Không có nền kinh tế nào có thể cân đối cả bên trong và bên ngoài. Trong nền kinh tế có mức độ USD hóa như Việt Nam, các chính sách tài khóa và tiền tệ rất khó thống nhất. Tình trạng này tạo điều kiện cho đầu cơ tài chính... Các giải pháp thắt chặt chính sách tiền tệ, bảo vệ đồng Việt Nam bằng cách tăng lãi suất, nhưng vấn đề đặt ra là tiến độ chính sách cần được thực hiện ngay lập tức hay từ từ?
Nhóm chuyên gia MUTRAP III, Paul Baker và Peter Naray, kiến nghị những chính sách mà Việt Nam có thể áp dụng. Trong ngắn hạn, những chính sách đó là giảm thuế suất treo; giảm các biện pháp khắc phục thương mại; cải thiện chính sách thương mại; xây dựng lòng tin về đồng tiền Việt Nam đi kèm duy trì sự ổn định giá cả… Trong tầm nhìn trung - dài hạn, có thể áp dụng các chính sách như tập trung giải quyết những mất cân đối kinh tế vĩ mô và các vấn đề quản lý thông thường; tăng cường các biện pháp thương mại trong nước; xây dựng các chính sách bình ổn và đặc biệt là cải thiện trình độ nguồn nhân lực...