GS. Trần Phương là Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
"Xin - cho" là sản phẩm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thậm chí đồng nhất với cơ chế này, do đó cũng được gọi là cơ chế - "cơ chế xin - cho".
Theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung thì mọi hoạt động của cơ sở đều phải đặt trong một kế hoạch chung của ngành, của địa phương, mọi hoạt động của các ngành, các địa phương phải đặt trong một kế hoạch chung của cả nước, gọi là Kế hoạch Nhà nước. Kế hoạch này, do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp, cắt xén cho cân đối, rồi trình Quốc hội phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ ký lệnh ban hành.
Kế hoạch Nhà nước gồm hàng triệu chỉ tiêu pháp lệnh giao cho từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở sản xuất lớn. Tính chất quan liêu của cơ chế này đã hạn chế và làm triệt tiêu sáng kiến và tính năng động của cơ sở, gây bức xúc cho hàng triệu người lao động ở cơ sở và cả những nhà quản lý các cấp dẫn đến những vụ "vượt rào", "xé rào" kéo dài từ thập kỷ 60 sang thập kỷ 70 và 80, tạo điều kiện chín muồi cho chủ trương "đổi mới" của Đại hội Đảng lần thứ 6.
Qua 25 năm triển khai, chủ trương "đổi mới" thực ra mới chỉ được thực hiện trong lĩnh vực kinh tế là chủ yếu, còn ở nhiều lĩnh vực khác, chủ trương đó mới chỉ dừng lại ở mức khẩu hiệu.
Tại sao như vậy? Vì lĩnh vực kinh tế liên quan đến cuộc sống thiết thân của hàng triệu con người, không đổi mới không sống được, còn các lĩnh vực khác, nếu không "rũ rối ra" thì vẫn có thể tạm sống được với cơ chế cũ. Còn một nguyên nhân quan trọng nữa là: trong bộ máy Nhà nước, không ít quan chức và công chức lại thích sống theo cơ chế cũ, cố bám lấy cơ chế cũ. Đơn giản vì cơ chế này trao cho họ cái quyền "cho".
Trong một bài báo, không thể kể hết những điều bất hợp lý của cơ chế xin - cho, chỉ xin kể ra đây mấy thí dụ có liên quan trực tiếp đến một đơn vị cơ sở một trường đại học - mà tôi là người đại diện.
Khi tôi cùng mấy chục giáo sư nghỉ hưu xin phép thành lập một trường đại học (đương nhiên là trường ngoài công lập) thì phải mất 3 năm, qua rất nhiều cửa mới xin được cái giấy phép.
Khi trường tôi (Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội) "xin" một héc-ta đất để xây trường (đây là một khoảnh đất trồng rau muống, những người trồng rau sẵn sàng nhường lại cho trường, tiền đền bù giải phóng mặt bằng thì do trường bỏ ra) vậy mà phải mất 7 năm, qua hơn 100 con dấu và chữ ký mới nhận được cái giấy phép.
Khi trường tôi muốn mở một ngành học thì cũng phải chờ ít nhất 6 tháng mới nhận được cái giấy phép của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hàng năm, trường được tuyển bao nhiêu sinh viên cũng phải chờ quyết định của Bộ.
Trong tất cả các trường hợp trên, người "cho" chỉ cho một chữ "đồng ý", ngoài ra không có một thứ gì khác để cho cả. Còn người "xin" thì mất rất nhiều thứ, từ công sức, thời gian, cơ hội và - chẳng nói ra thì ai cũng hiểu - cả tiền "bôi trơn" nữa (đấy là không nói đến chuyện đút lót).
Điều đáng bàn là: cái quyền được trao cho người "cho" có đáng trao không? Có nhiều điều hệ trọng phức tạp cần phải cân nhắc trước khi "cho" không, hay chỉ là những thủ tục rườm rà? Tôi lấy hai thí dụ sau cùng để làm rõ câu hỏi này.
Về việc cấp phép mở ngành đào tạo
Sau 13 năm đào tạo về nhiều ngành kinh tế và kinh doanh, trường tôi phát hiện thấy còn thiếu một loại chuyên gia rất cần cho các doanh nghiệp, đó là chuyên gia về luật kinh doanh. Các nhà đầu tư nước ngoài khi vào Việt Nam đều mang theo một chuyên gia về luật kinh doanh mà ta thường gọi nhầm là luật sư.
Để mở thêm ngành đào tạo về luật kinh doanh, trường đã trình Bộ cả mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, cả danh sách giảng viên về các môn học thuộc chương trình đào tạo. Sau 7 tháng chờ đợi, vẫn chưa nhận được cái giấy phép. Lý do: Bộ còn phải trao đổi với Bộ Tư pháp.
Ô hay, đào tạo về luật kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp sao lại phải có ý kiến của Bộ Tư pháp? Đối với một vấn đề đơn giản như vậy, chẳng lẽ Bộ Giáo dục và Đào tạo không đủ năng lực để quyết định "cho" hay không "cho" ư?
Ở tất cả các nước trên thế giới, các trường đại học đều có quyền tự chủ mở ra các ngành đào tạo và thiết kế nội dung của các chương trình đào tạo ấy. Nói đến quyền tự chủ của trường đại học thì trước tiên là nói đến quyền này. Nếu các ngành đào tạo do trường mở ra không đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì sẽ chẳng có ai đến học cả. Như vậy là trách nhiệm xã hội của trường đã bao hàm ngay trong quyền tự chủ.
Nước ta hiện có 200 trường đại học, nếu bình quân mỗi trường đào tạo 10 ngành (thực tế thì nhiều hơn) cà nước sẽ có 2.000 ngành. Trong số các ngành này, có nhiều ngành có tên gọi giống nhau, nhưng nội dung đào tạo thì lại không hoàn toàn giống nhau, vì mỗi trường có điểm mạnh riêng của mình.
Nếu Bộ giữ lấy quyến cho phép mở ngành đào tạo thì Bộ có đủ chuyên gia để thẩm định chương trình đào tạo của 2.000 ngành không? Hẳn là không. Trường hợp mà tôi vừa nêu về ngành luật kinh doanh là một thí dụ.
Có người sẽ hỏi: nếu Bộ không giữ lấy quyền cấp phép mở ngành đào tạo thì quản lý sao được nội dung của giáo dục đại học? Xin thưa: vẫn quản lý được thông qua chức năng giám sát, kiểm tra và kiểm định chất lượng giáo dục của các trường đại học. Có một điều mà nhiều người không để ý đến: quản lý giáo dục đại học không giống quản lý giáo dục tiểu học hay giáo dục trung học phổ thông. 1.000 trường tiểu học chỉ là một trường, vì 1.000 trường đều dạy chung một chương trình, sử dụng chung một hệ thống giáo trình. 1.000 trường trung học phổ thông cũng vậy.
Trong khi đó thì một trường đại học thường ôm trong lòng nó 10 trường (10 ngành nghề đào tạo), 20 trường, 30 trường và nhiều hơn thế. Để thiết kế một chương trình đào tạo cho một ngành học (cũng tức là cho một nghề), trường đại học phải dựa vào kiến thức và kinh nghiệm của một tập thể chuyên gia gồm hàng chục nghề khác nhau. Công việc này, chỉ các trường đại học mới làm nổi, không cơ quan quản lý nào thay thế được họ.
Bộ đã từng xác định cho mình nhiệm vụ ban hành “chương trình khung” cho các ngành đào tạo đại học, và để làm việc này, Bộ đã lập ra một loạt hội đồng, mỗi hội đồng chịu trách nhiệm thiết lập chương trình khung cho một ngành. Dù thành phần mỗi hội đồng gồm cả chục chuyên gia, vẫn không đủ kiến thức và kinh nghiệm bao quát cả một ngành được giao. Kết quả là: nhiều chương trình khung chỉ là một bản phác thảo nghèo nàn, khập khiễng.
Ở các nước có nền giáo dục đại học phát triển, người ta chỉ quy định "khung chương trình". Vì là khung cho nên chỉ quy định trên những nét lớn: một chương trình đào tạo đại học 4 năm thì phải gồm bao nhiêu đơn vị kiến thức (hay tín chỉ), phần kiến thức đại cương phải chiếm tỷ lệ bao nhiêu, phần kiến thức chuyên nghiệp phải chiếm tỷ lệ bao nhiêu. Còn việc quy định sâu hơn đến từng môn học cho mỗi ngành đào tạo thì dành cho các trường đại học, vì khoa học liên tục phát triển, nhu cầu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên cũng không ngừng biến động.
Nói đến việc cấp phép mở ngành đào tạo thì phải nói đến danh mục các ngành đào tạo mà Bộ dựa vào đó để cấp phép. Danh mục này ở nước ta đã trở nên quá lạc hậu so với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Trong khi cả thế giới đổ xô vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì danh mục các ngành đào tạo của nước ta lại thiếu vắng một ngành thương mại. Trong khi tài chính và ngân hàng đã trở thành những ngành kinh tế độc lập, mỗi ngành đều có quy mô rất lớn và đều phân ra nhiều chuyên ngành thì danh mục các ngành đào tạo của nước ta vẫn ghép tài chính và ngân hàng vào một ngành, điều này khiến cho sinh viên ra trường sẽ không đủ kiến thức sâu về một ngành nào cả. Trong khi du lịch đã trở thành một ngành kinh doanh mũi nhọn của nước ta thì danh mục các ngành đào tạo vẫn buộc nó phải đội cái tên "Việt Nam học" là tên của một nhánh nghiên cứu khoa học, giống như "Đông phương học", "Trung Quốc học"...
Chỉ riêng cái danh mục các ngành đào tạo lạc hậu này đã gây ra biết bao trở ngại cho các trường đại học khi xin phép mở ngành đào tạo. Phải chăng vì cái danh mục này còn thiếu một ngành đào tạo về luật kinh doanh cho nên cơ quan cấp phép của Bộ mới phải trao đổi với Bộ Tư pháp? Danh mục các ngành đào tạo không nên là một danh mục đóng kín. Nó phải sẵn sàng đón nhận những ngành đào tạo mới mà sự phát triển liên tục của phân công lao động xã hội đòi hỏi phải được đáp ứng.
Về việc giao chỉ tiêu tuyển sinh
Đối với các trường đại học công lập, việc giao chỉ tiêu tuyển sinh là điều dễ hiểu. Vì ngân sách Nhà nước phải "bao cấp" tới 70-80% chi phí đào tạo cho mỗi sinh viên.
Còn trường đại học ngoài công lập thì khác: Loại trường này không nhận được một đồng trợ cấp nào từ ngân sách Nhà nước. Toàn bộ chi phí đào tạo, sinh viên phải thanh toán dưới hình thức học phí. Vì vậy, không thể vì lý do ngân sách Nhà nước mà khống chế chỉ tiêu tuyển sinh của các trường đại học ngoài công lập.
Có ý kiến phản bác lại rằng: không khống chế chỉ tiêu tuyển sinh thì làm sao bảo đảm được chất lượng đào tạo? Lập luận này dựa trên một sự nhầm lẫn tai hại. Chất lượng đào tạo đâu có phụ thuộc vào số lượng sinh viên nhiều hay ít? Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, chủ yếu là các yếu tố sau đây:
1. Nội dung của chương trình đào tạo có bảo đảm cho sinh viên có đủ những kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của họ sau khi ra trường hay không?
2. Đội ngũ giảng viên của trường có đủ về số lượng và chất lượng để truyền thụ cho sinh viên những nội dung của chương trình đào tạo hay không?
3. Nhà trường có bảo đảm được cho sinh viên những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết cho việc học tập của họ hay không? (phòng học, thiết bị dạy và học, thiết bị thí nghiệm, thực hành, thư viện, giáo trình và tài liệu học tập, v.v...)
4. Về phía sinh viên thì có đủ trình độ và quyết tâm để hoàn thành chương trình đào tạo hay không?
Trong 4 yếu tố trên đây thì 3 yếu tố thuộc về trách nhiệm của nhà trường, 1 yếu tố thuộc về trách nhiệm của sinh viên. Trong cả 4 yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng đào tạo, không có yếu tố nào thuộc về số lượng tuyển sinh.
Giữa 3 yếu tố thuộc phần trách nhiệm của nhà trường, có mối quan hệ quy định lẫn nhau rất chặt chẽ. Không thể tuyển sinh 1.000 sinh viên nếu trường sở chỉ đủ chỗ cho 900 người hoặc nếu đội ngũ giảng viên chỉ đủ sức giảng dạy cho 900 người. Trong trường hợp ngược lại, nếu trường sở đủ chỗ cho 1.000 người, nếu đội ngũ giảng viên đủ sức giảng dạy cho 1.000 người, mà chỉ tiêu tuyển sinh chỉ cho phép tuyển 900 người thì hậu quả sẽ rất tai hại: 10% cơ sở vật chất kỹ thuật bị lãng phí, 10% năng lực của đội ngũ giảng viên bị lãng phí, trong khi nhu cầu học tập của thanh niên thì không được đáp ứng.
Trường tôi - Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà nội - đã có nhiều năm rơi vào tình trạng đó: phòng học có năm bị bỏ trống tới 3.700 chỗ, không thể bỗng chốc mà đem đi cho thuê; năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên thì chỉ được sử dụng đến mức 75%, còn 25% đành bỏ phí, nhiều giảng viên rơi vào tình trạng "bán thất nghiệp"; trong khi đó thì hàng ngàn thí sinh đủ "điểm sàn" để gọi nhập học nhưng không thể tiếp nhận vì chỉ tiêu tuyển sinh không cho phép. Trong những điều kiện như vậy thì hiệu quả kinh tế của trường gần như bằng không. Không phá sản là may!
Những chuyên viên của Bộ tính toán chỉ tiêu tuyển sinh để giao cho các trường thì chỉ biết mỗi năm tăng giảm bao nhiêu phần trăm, không cần biết đến quan hệ cân đối giữa số lượng sinh viên với đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất kỹ thuật của từng trường. Tính quan liêu của việc giao chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước cách đây nửa thế kỷ vẫn được duy trì nguyên vẹn ở Bộ Giáo dục và Đào tạo!
Để tính chỉ tiêu tuyển sinh cho từng trường, các chuyên viên của Bộ đưa ra một loạt định mức:
Định mức giảng mỗi năm cho một giảng viên (cơ hữu) là 280 tiết, thời gian dành cho việc giảng dạy chiếm 1/3 thời gian làm việc cả năm, còn lại 1/3 thời gian dành cho việc tự nghiên cứu, nâng cao trình độ, 1/3 thời gian dành cho nghiên cứu khoa học. Giảng viên thỉnh giảng thì chỉ được tính bằng 0,2 giảng viên cơ hữu (trong khi ở trường tôi, bình quân mỗi giảng viên thỉnh giảng đảm nhiệm trên 500 tiết giảng/năm). Với định mức giảng như trên thì số lượng giảng viên tính bình quân cho 100 sinh viên phải đạt con số rất cao trong khi thực tế chỉ đòi hỏi 1/2 hay 1/3 con số đó.
Những định mức này hiển nhiên chẳng ăn nhập là bao với thực tế đời sống. Nếu mỗi giảng viên có định mức 280 tiết giảng/năm, nghĩa là 28 tiết giảng/tháng, 7 tiết giảng/tuần, cũng tức là 1 ngày/tuần thì 5 ngày còn lại họ làm gì? Chuẩn bị bài giảng ư? Tự nghiên cứu nâng cao trình độ ư? Nghiên cứu khoa học ư? Tất cả các hoạt động này, chẳng ai trả tiền cho họ. Chỉ duy nhất hoạt động giảng dạy của họ là được trả lương và thù lao. Nhưng với hoạt động giảng dạy chỉ 1 ngày/tuần hay 4 ngày/tháng thì sẽ được hưởng bao nhiêu lương và thù lao?
Ở trường tôi, không giảng viên nào giảng dưới 600- 700 tiết giảng mỗi năm, nếu tính cả việc hướng dẫn sinh viên thực tập, hướng dẫn sinh viên viết luận văn tốt nghiệp... thì bình quân mỗi giảng viên cơ hữu đạt 1.000 tiết giảng/năm (cũng tức là 100 tiết giảng/tháng, 25 tiết giảng/tuần hay là 5 buổi giảng/tuần). Có như vậy, họ mới đạt được mức lương và thù lao 5-6 triệu đồng/tháng là mức tạm đủ sống trong điều kiện hiện nay.
Sử dụng những định mức nêu trên để tính chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường khiến cho nhiều trường không cân đối được giữa chỉ tiêu tuyển sinh với lực lượng giảng viên và cơ sở vật chất kỹ thuật đã chuẩn bị sẵn của họ. Tình trạng vượt chỉ tiêu tuyển sinh vì vậy năm nào cũng xảy ra, giống như tình trạng “vượt rào" trước Đại hội đổi mới.
Đáng lẽ phải nghiên cứu dẹp bỏ cơ chế này ngay từ khi Đảng và Nhà nước dẹp bỏ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu thì Bộ Giáo dục và Đào tạo (dưới thời vị Bộ trưởng tiền nhiệm của vị Bộ trưởng hiện nay) lại cố níu kéo lấy cơ chế lỗi thời ấy bằng cách đề nghị Thủ tướng ký một quyết định xử phạt hành chính đối với các trường vượt chỉ tiêu tuyển sinh do Bộ giao. Không hiểu sao vị Thủ tướng hồi ấy cũng đặt bút ký vào quyết định ấy!
Trở lại với việc giao chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường đại học công lập. Sau khi nhận được chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp với khả năng trợ cấp của ngân sách Nhà nước, nhiều trường đại học công lập vẫn còn thừa năng lực giảng dạy và cơ sở vật chất kỹ thuật. Vì vậy, Bộ đã cho phép các trường này tuyển sinh hệ B, được hiểu là một hệ mà sinh viên phải trang trải toàn bộ chi phí đào tạo dưới hình thức học phí. Điều này cũng có ý nghĩa như là cho phép hình thành một trường đại học ngoài công lập trong lòng một trường công lập.
Đây là một bước tiến có ý nghĩa "giải phóng lực lượng sản xuất" cho các trường đại học công lập. Cần nghiên cứu bước tiến tiếp theo: trao hẳn quyền tự chủ cho các trường này trong việc tuyển sinh hệ B mà không phụ thuộc vào bất cứ chỉ tiêu nào từ cơ quan quản lý.
Khoa học quản lý ngày nay đã khẳng định một nguyên tắc: việc gì, ai làm tốt nhất thì giao cho người ấy. Nền kinh tế và cuộc sống vẫn luôn luôn hướng theo nguyên tắc ấy - một nguyên tắc phản ánh quy luật khách quan. * Tác giả bài viết là Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, lạm phát 2 con số là khả năng hoàn toàn có thể xảy ra cho năm 2010. Để giảm những áp lực làm tăng lạm phát, gánh nặng một phần được san sẻ cho xuất khẩu với mục tiêu tăng trưởng trên 6% so với năm 2009, tương đương 59,9 tỷ USD.
Giám đốc doanh nghiệp tư nhân có trụ sở ở Hà Nội, Trần Đức Minh cảm thấy bất an khi đọc bản tin tài chính trên một tờ báo kinh tế cuối tuần trước. Theo bản tin này, một số khách hàng đã bắt đầu phải vay vốn với lãi suất lên đến 19% ở các ngân hàng thương mại. Trong bối cảnh lãi suất ở một số trung tâm tài chính của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn đang ở mức thấp kỷ lục từ 0,25 – 0,5%, mức lãi suất ở Việt Nam cho thấy những dấu hiệu không ổn. Ông Minh nói: “Mức lãi suất như thế thì doanh nghiệp nào còn lãi. Nó đã gần với kỷ lục của giữa năm 2008”.
Tại buổi Tọa đàm “Kinh tế Việt Nam năm 2009 và triển vọng năm 2010”, do Hội doanh nhân trẻ TP.HCM tổ chức cuối tuần qua, có nhắc đến vấn đề đáng lưu ý: Làm thế nào để Việt Nam thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” và vươn lên con Rồng châu Á? Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng: “Chính phủ cần có chính sách vĩ mô cho quá trình rượt đuổi này, còn về phía doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó quan trọng nhất là nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm, chuyển dần từ cạnh tranh bằng giá rẻ sang cạnh tranh bằng chất lượng và sáng tạo”.
Hầu hết các nhà kinh tế hàng đầu trong nước đều có chung cái nhìn thận trọng về triển vọng kinh tế năm 2010, bất chấp những dự báo lạc quan do các tổ chức quốc tế và các cơ quan nhà nước đưa ra gần đây.
Các tỉnh, thành phố của Việt Nam có thể tăng cường thu hút đầu tư và tăng trưởng kinh tế bằng cách cải thiện tính minh bạch và nâng cao chất lượng lao động, theo kết quả báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2009 công bố ngày hôm nay (14/1/2010) tại Hà Nội.
Nhật có lẽ là một trong những quốc gia châu Á thành công nhất về giáo dục đại học. Các đại học của Nhật đứng trong hàng ngũ các đại học danh tiếng trên thế giới. Ngày nay các đại học Nhật còn đào tạo rất nhiều nhà khoa học cho các nước châu Á, kể cả Việt Nam. Do đó, tìm hiểu và suy nghiệm quá trình phát triển giáo dục đại học ở Nhật có thể cung cấp cho chúng ta vài bài học có ích.
Tổng hợp kết quả về việc xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện chương trình hành động của Chính phủ để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Bộ Công Thương đã nhận được báo cáo của 14 bộ và 37 địa phương.
Gần đến ngày 22/01, thời điểm công bố chỉ số CPI cho tháng đầu tiên của năm 2010, không ít người thấy lo lắng và hồi hộp. Nguyên nhân chính là do những lo ngại về việc Chính phủ có thể tăng lãi suất cơ bản nếu CPI tháng này có chiều hướng tăng cao. Những lo ngại này là hoàn toàn có cơ sở dựa trên hai nguyên nhân chủ yếu sau:
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.