Riêng một số đơn vị đặc biêt, bao gồm: Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM, Trung tâm Lưu ký chứng khoán, tổ chức tín dụng và kinh doanh xổ số thực hiện theo quy định riêng.
Mặc dù Thông tư 138/2010/TT-BTC phải đến ngày 5/11/2010 mới có hiệu lực thi hành, nhưng Bộ Tài chính vẫn cho phép các công ty TNHH 1 thành viên 100% vốn nhà nước áp dụng ngay trong năm tài chính 2010.
Theo quy định, lợi nhuận của công ty TNHH 1 thành viên 100% vốn nhà nước sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được dành để chia lãi cho các thành viên; bù đắp khoản lỗ của các năm trước; trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính (dừng trích quỹ dự phòng khi số dư của quỹ bằng 25% vốn điều lệ). Ngoài ra, công ty đặc thù còn phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế.
Số lợi nhuận còn lại sau khi thực hiện các nghĩa vụ trên được phân phối theo tỷ lệ giữa vốn góp của Nhà nước và vốn công ty tự huy động (phát hành trái phiếu; vay vốn của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, tổ chức tài chính, cá nhân, tổ chức ngoài công ty; vay vốn của người lao động và các hình thức huy động vốn khác nhưng không tính các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ, Bộ Tài chính và các khoản vay được hỗ trợ lãi suất.
Cũng theo quy định này, đối với công ty chưa được đầu tư đủ vốn điều lệ thì phần lợi nhuận được chia của Nhà nước được dùng để đầu tư bổ sung cho đủ vốn điều lệ đã được phê duyệt. Đối với công ty đã đủ vốn điều lệ thì phải chuyển phần lợi nhuận của Nhà nước về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ương.
Công ty phải trích tối thiểu 30% phần lợi nhuận được chia theo vốn tự huy động vào quỹ đầu tư phát triển, số còn lại được trích quỹ thưởng ban quản lý điều hành công ty (quỹ thưởng).
Cụ thể, nếu ban quản lý điều hành hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì được trích tối đa 5% lợi nhuận được chia theo vốn tự huy động để lập quỹ thưởng. Bộ Tài chính cho phép công ty TNHH có hội đồng thành viên được trích quỹ thưởng tối đa lên tới 500 triệu đồng/năm. Công ty TNHH không có hội đồng thành viên được trích tối đa 200 triệu đồng/năm vào quỹ thưởng.
Trường hợp ban quản lý điều hành chỉ hoàn thành nhiệm vụ cũng được trích tối đa 2,5% lợi nhuận được chia theo vốn tự huy động để lập quỹ thưởng (mức trích tối đa là 250 triệu đồng/năm hoặc 100 triệu đồng/năm tuỳ thuộc vào công ty có hoặc không có hội đồng thành viên). Tuy nhiên, Bộ Tài chính nghiêm cấm ban quản lý điều hành không hoàn thành nhiệm vụ được trích lập quỹ thưởng, kể cả trường hợp công ty có lãi.
Đối với công ty có vốn nhà nước nhiều hơn vốn tự huy động nên lợi nhuận được chia theo vốn tự huy động không đủ hoặc không có để trích quỹ thưởng, nếu ban quản lý điều hành hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cũng được Bộ Tài chính cho phép trích lập quỹ thưởng từ nguồn giảm quỹ đầu tư phát triển (trường hợp quỹ đầu tư phát triển không đủ thì được dùng phần lợi nhuận được chia theo vốn thuộc nhà nước để thực hiện).
Theo quy định của Bộ Tài chính, đối với công ty sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch, khi phân phối lợi nhuận mà không đủ trích quỹ thưởng ban quản lý điều hành và quỹ khen thưởng, phúc lợi thì được giảm trích quỹ đầu tư phát triển, giảm phần lợi nhuận được chia của Nhà nước để thực hiện.
Sau khi đã thực hiện các biện pháp trên mà công ty cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích không đủ nguồn để trích quỹ thưởng và quỹ khen thưởng, phúc lợi sẽ được Nhà nước hỗ trợ 100% mức trích còn thiếu nếu công ty được xếp loại A và có tỷ trọng doanh thu cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích đạt từ 50% tổng doanh thu trở lên. Nhà nước hỗ trợ 50% mức trích quỹ còn thiếu nếu công ty được xếp loại A nhưng có tỷ trọng doanh thu cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích dưới 50% tổng doanh thu hoặc xếp loại B.
(Theo Mạnh Bôn // Báo đầu tư)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com