Ở Hàn Quốc, việc thu hút được 30 - 40 tỷ USD vốn FDI đã là quá lớn. Một dự án có vốn FDI khoảng 500 triệu USD đã được xếp vào hàng đại dự án. Trong khi ở Việt Nam, chuyện dự án FDI có vốn... 5 - 7 tỷ USD, thậm chí trên 10 tỷ USD cũng không phải quá xa lạ với nhiều cơ quan quản lý, thậm chí là người dân.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nguyên nhân của sự khác biệt mà Việt Nam cần đặc biệt lưu ý, đó là trình tự và điều kiện để được chính thức cấp phép, công nhận một doanh nghiệp FDI.
Cụ thể, tại Hàn Quốc, điều kiện chấp thuận cho một doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động, là doanh nghiệp đó phải chuyển vốn vào Hàn Quốc.
Và chỉ sau khi doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền vào công ty trên hoặc thanh toán đầy đủ tiền mua cổ phần, góp vốn thì mới được cơ quan thẩm quyền cho phép đăng ký công ty có vốn nước ngoài. Quan điểm của Hàn Quốc là tiền chưa vào trong nước, thì chưa coi là đầu tư nước ngoài.
Điều này cũng đồng nghĩa, chỉ khi doanh nghiệp nước ngoài chính thức chuyển tiền vào trong nước thì khi đó mới hoàn thành thủ tục đầu tư.
Trong khi đó, ở Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ cần hoàn tất một số thủ tục bắt buộc theo pháp luật Việt Nam, trong đó quan trọng nhất là số vốn đăng ký vào các dự án, là coi như đã trở thành một doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực sự.
Do đó, ở Việt Nam mới hình thành nên những khái niệm là vốn đăng ký, vốn thực hiện và thậm chí là vốn điều lệ...
Theo ông Hiếu, điều đáng nói ở đây là chúng ta lại luôn mang con số vốn đăng ký (hơn 70 tỷ USD năm 2008) báo cáo với quốc tế, trong khi vốn thực hiện lại ít hơn rất nhiều. Và rồi, việc giải ngân được bao nhiêu, nguồn vốn giải ngân từ đâu ra thì không cơ quan nào theo sát được.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Hàn Quốc và Đài Loan cũng tách biệt rõ hai bộ phận hoạch định chính sách đầu tư nước ngoài và bộ phận quản lý đầu tư nước ngoài, khác với tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” như ở Việt Nam.
Do đó, cơ quan chịu trách nhiệm về thu hút đầu tư nước ngoài của họ chỉ chuyên đi thu hút, không tham gia vào làm chính sách thu hút. Cơ quan này tham gia trực tiếp với các hoạt động của doanh nghiệp, và họ hiểu rõ doanh nghiệp cần gì.
Ngoài ra, mục tiêu thu hút đầu tư FDI của Hàn Quốc thể hiện rõ là phát triển công nghệ cao và tăng khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế, do đó họ chỉ có ưu đãi ngành, chứ không có ưu đãi vùng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Đối tượng ưu đãi cũng rất hẹp, không tràn lan như ở Việt Nam. Họ cũng không cho phép phân quyền cấp phép như Việt Nam.
Thậm chí, ở Hàn Quốc và Đài Loan, cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài đưa ra điều kiện là sau 3 năm, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng đạt trên 30% với những sản phẩm có giá trị. Hay các khu công nghệ cao thì chỉ dành cho doanh nghiệp nội địa, doanh nghiệp có vốn nước ngoài tuyệt đối không được tham gia khu công nghệ cao (mục tiêu là cho doanh nghiệp nội tạo thế chủ động về công nghệ và sản phẩm làm ra phải phục vụ người dân bản địa)...
(tamnhin)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com