Chính sách lãi suất: Từ lý thuyết đến thực tế
(TS Nguyễn Thị Kim Thanh - Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng // Theo DĐDN)
Cơ chế điều hành lãi suất, chính sách tỷ giá trước áp lực lạm phát trong giai đoạn hiện nay đã được các nhà nghiên cứu, chuyên gia tài chính bàn luận sôi nổi và đưa ra nhiều giải pháp tại Diễn đàn “Áp lực lạm phát và chính sách tài chính - tiền tệ”. Báo DĐDN xin trân trọng giới thiệu tóm lược một số ý kiến của TS Nguyễn Thị Kim Thanh - Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng. Cần linh hoạt Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn NHTƯ của các nước trên thế giới cũng như NHNN VN là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia – thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của NHTƯ để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó. Đối với các nền kinh tế thị trường chưa phát triển như VN, nhiều quan hệ kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường thì việc vận dụng các nền tảng lý thuyết (điển hình như quy tắc Taylor - giúp cho một NHTƯ xác định được các tỷ lệ lãi suất trong ngắn hạn khi các điều kiện kinh tế thay đổi để đạt được hai mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm soát lạm phát trong dài hạn), để hoạch định chính sách lãi suất cần có sự linh hoạt, bám sát mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội cũng như các diễn biến thực tế của thị trường. Trong điều kiện như hiện nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, hoạch định chính lãi suất của NHNN cần phải xem xét đến các yếu tố thực tế. Thực trạng của nền kinh tế VN hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc. Dù tăng trưởng kinh tế quý 1/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quý 1/2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại. Cho đến thời điểm hiện nay có thể thấy hệ thống Ngân hàng VN đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Xét trong hệ thống các TCTD với 73 ngân hàng và 8 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít NHTM có vốn điều lệ và tài sản lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (2 NHTM NN, 3 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1 ngân hàng chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung ứng tín dụng khoảng 60%. Mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường tồn tại nhiều NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008, và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quý 1 chỉ đạt 3,34%). Trong quý 1/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng, điều đó cho thấy vốn của các NHTM không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Dư nợ tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển chiếm khoảng 12,1% tổng dư nợ trong nền kinh tế... Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. Cân nhắc lợi ích Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn”- là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của VN hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào, tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của VN hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mãi khác. Tuy nhiên lãi suất thực đang có xu hướng giảm bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần. Như vậy có nghĩa là các NHTM vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý 1/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. Hướng tới tự do hóa lãi suất Là một nền kinh tế USD hóa, lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ cộng (+) với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa nội tệ và ngoại tệ của các thành viên trong thị trường. Điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt chính sách khác (như yêu cầu các TCty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các DN...) đã phải hướng tới sự ổn định này. Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ. Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010 hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn. Đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Do vậy, tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất. Trước mắt, phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng.Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản – làm cơ sở định hướng chuẩn cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này. Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu. Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất. Đồng thời trong thời gian này NHNN cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế. Tuy nhiên về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt và trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2010. Để thực hiện nhiệm vụ đó, ngành ngân hàng đang triển khai những giải pháp ứng phó kịp thời. Tuy nhiên để hỗ trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành trong dài hạn, bên cạnh sự nỗ lực của toàn ngành ngân hàng, cũng rất cần thiết phải có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành hữu quan trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển các thị trường nợ một cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực ngân hàng trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước. Tăng lãi suất dưới góc độ lý thuyết trò chơi Người chơi cụ thể trong trò chơi “tăng lãi suất” này là các NHTM, nhưng không phải tất cả, mà chỉ là các NHTM không có khả năng tiếp cận vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua hình thức chiết khấu tín phiếu. Chính đặc điểm này sẽ làm cho các NHTM tham gia trò chơi không có lựa chọn nào khác là huy động vốn từ dân cư hay từ hệ thống liên ngân hàng. Nhưng lãi suất liên ngân hàng quá cao nên mục tiêu cơ bản vẫn là huy động từ dân cư thông qua lãi suất huy động. Diễn biến của “trò chơi” Để đơn giản cho việc khảo sát, giả sử chỉ có hai NHTM là A và B và khách hàng chỉ có thể gửi tiền vào hai ngân hàng này. Do ai cũng nghĩ rằng NHNN sẽ không bao giờ làm ngơ khi có một NHTM nào đó mất khả năng thanh toán và trên thực tế chưa có NHTM nào phải rơi vào tình trạng như thế thật, vì vậy khách hàng sẽ gửi tiền vào NHTM nào có lãi suất cao hơn. Như thế NHTM A và B phải đứng trước lựa chọn, có tăng lãi suất hay không? Chúng ta sẽ cùng theo dõi bảng sau để thấy được lợi và hại của từng NHTM trong từng trường hợp: Chú thích : -1: huy động được với giá cao -2: không huy động được 2: huy động được với giá cao nhưng nhanh chóng. 1: huy động được với giá rẻ nhưng chậm. Trong bảng trên chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng nếu A và B cùng tăng lãi suất thì hai ngân hàng sẽ chịu thiệt, tức là sẽ huy động được với giá cao. Nhưng nếu một trong hai quyết định tăng và ngân hàng kia giữ nguyên thì ngân hàng tăng sẽ thu hút được vốn với giá cao, còn ngân hàng giữ nguyên sẽ không huy động được vốn. Nhưng nếu cả hai cùng giữ nguyên lãi suất thì lợi ích chia đều cho cả hai, tức huy động được với giá rẻ nhưng chậm. Nếu bạn là một trong hai NHTM, bạn sẽ quyết định thế nào? Qua bảng mô tả trên, rõ ràng với A hay B thì lựa chọn tăng lãi suất là “chiến lược áp đảo” của trò chơi này, là chiến lược tối ưu bất kể bên kia quyết định thế nào. Vì vậy, cả A và B đều chọn chiến lược áp đảo này và cùng nhau tăng lãi suất là điều hợp lý và điểm (-1,-1) là điểm “cân bằng” của trò chơi. Điều đó nói lên rằng nếu để cho hai NHTM này tự do đưa ra quyết định thì điểm (-1,-1) là kết cục cuối cùng của trò chơi mặc dù ở đó lợi ích của cả hai không phải là tối ưu. Nếu hai NHTM này cùng “bắt tay” không tăng lãi suất để cùng nhau có lợi ích = 1, tức là huy động được vốn với giá rẻ nhưng chậm. Đây là kết cục tối ưu nhưng do đây là trò chơi có kết thúc (khi các NHTM hoàn thành mục tiêu huy động) và có thời gian giới hạn nên khi cả hai cùng huy động chậm thì sẽ nảy sinh những động cơ gian lận để tăng lãi suất nhằm về đích trước trong trò chơi. Rõ ràng các NHTM không có bất kỳ biện pháp nào để trừng phạt gian lận ngoài việc đáp trả bằng cách tăng lãi suất, điều đó sẽ dẫn trò chơi đến điểm “cân bằng”. hưng cũng có một thuận lợi là việc gian lận hoàn toàn có thể bị phát hiện được vì khi tăng lãi suất các NHTM buộc thông báo trên phương tiện truyền thông, vì thế nguy cơ bị đáp trả là khá rõ ràng. Nhưng nếu cam kết bị một NHTM phá vỡ, thì trong ngắn hạn, NHTM kia sẽ phải chịu tổn thất khi không có đáp trả kịp thời. Vì các NHTM đều hiểu rõ việc tuân thủ cam kết là rất mạo hiểm nên việc có một cam kết giữ nguyên lãi suất giữa các NHTM là bất khả thi. Ở trên chỉ khảo sát hai NHTM nhưng trong thực tế có rất nhiều NHTM trong hệ thống và việc đoán được hành vi của mỗi NHTM là rất khó khăn. Càng nhiều NHTM, động cơ chọn tăng lãi suất càng lớn. Vì thế “điểm cân bằng” của trò chơi mới cũng vẫn là điểm (-1,...,-1), tức là tất cả các NHTM đều tăng lãi suất. Chính vì có nhiều NHTM nên việc có một cam kết cho tất cả các ngân hàng khó khăn hơn rất nhiều. Rủi ro cho việc cam kết là quá lớn trong trường hợp này. Trò chơi này cứ thế tiếp tục cho đến khi nào tất cả các NHTM cùng đạt đến mục tiêu huy động vốn của riêng mình thì trò chơi mới chấm dứt, khi đó lãi suất sẽ không còn được tăng nữa. Giải pháp Từ những phân tích ở trên, việc các NHTM tăng lãi suất là hoàn toàn dễ hiểu và có thể dự đoán được. Nhưng kết quả của việc này là gây ra những bất ổn tạm thời trong hệ thống ngân hàng, nên việc hạn chế các cuộc đua như thế là hoàn toàn cần thiết. Có người cho rằng việc NHNN ấn định mức trần lãi suất huy động là bất hợp lý, nhưng theo tôi đó là giải pháp có thể áp dụng được. Cũng có ý kiến cho rằng làm như thế là không hợp lý vì mỗi NHTM có tình hình tài chính tốt, xấu, mạnh yếu khác nhau, áp dụng trần lãi suất như thế là đánh đồng tất cả thì không hợp lý. Nhưng như đã trình bày ở trên, do người gửi tiền chỉ gửi tiền vào các NHTM có lãi suất cao, nên đã làm trò chơi này đi theo hướng NHTM nào có lãi suất cao là thắng, vì thế biện pháp đặt trần lãi suất phù hợp là phù hợp nhưng cần được tính toán kỹ.
( MINH ĐỨC //Vneconomy)
Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… tiếp tục được giữ nguyên trong tháng 5 theo quyết định mới ban hành của Ngân hàng Nhà nước.
Chiều 27/4, Ngân hàng Nhà nước có Thông báo số 149/TB-NHNN về việc áp dụng một số mức lãi suất bằng đồng Việt Nam từ ngày 1/5/2010.
Theo đó, lãi suất cơ bản tiếp tục giữ ở mức là 8%/năm; lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 8,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 6,0%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 8,0%/năm.
Như vậy, sau lần điều chỉnh vào ngày 25/11/2009, áp dụng từ ngày 1/12/2009, lãi suất cơ bản 4 tháng liên tiếp được giữ ở mốc 8%/năm. Tuy nhiên, với cơ chế lãi suất thỏa thuận đã được mở cho các khoản vay bằng VND ngắn hạn, trung và dài hạn, vai trò của lãi suất cơ bản hiện không còn nhiều ý nghĩa.
Việc giữ nguyên lãi suất cơ bản như trên ở thời điểm này gần như chỉ mang tính tín hiệu về sự ổn định của chính sách tiền tệ. Trong khi kỳ vọng hạ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu từng được một số ý kiến đặt ra trước đó đã không hiện thực.
Ngân hàng Nhà nước đang phạm luật?
(Tác giả: HỒ SỸ THỤY // Tuanvietnam )
Nếu cho rằng, với sự ra đời của Thông tư số 12 của Ngân hàng Nhà nước, pháp luật đã dỡ bỏ chế độ trần lãi suất và thiết lập hoàn toàn cơ chế lãi suất thoả thuận đối với các tổ chức tín dụng là không đúng.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 14/4/2010 để hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay theo lãi suất thoả thuận. Theo đó, các TCTD thực hiện cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với "nhu cầu vốn của dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả".
Những hệ lụy pháp lý
Theo Bộ luật dân sự năm 2005 và Nghị quyết 23 ngày 06/11/2008 của Quốc hội thì những khoản cho vay ngoài cho vay sản xuất kinh doanh có hiệu quả và việc huy động vốn của TCTD vẫn phải tuân thủ chế độ trần lãi suất qui định tại Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005.
Do vậy, việc NHNN chấm dứt hiệu lực thi hành của Quyết định số 16 và 33 năm 2008 của NHNN về cơ chế trần lãi suất không có nghĩa là qui định tại Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 về trần lãi suất không còn hiệu lực thi hành đối với các TCTD.
Mặt khác, Thông tư số 12 qui định các TCTD được cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh "có hiệu quả". Nói cách khác, đối với các dự án, phương án không "có hiệu quả" hoặc không tính được hiệu quả thì vẫn phải thực hiện chế độ trần lãi suất cho vay.
Tuy nhiên, Thông tư số 12 chưa giải thích, hay nói cách khác, không hướng dẫn tiêu chí cho việc đánh giá một dự án, phương án sản xuất-kinh doanh là có hay không có hiệu quả. Bởi vậy, dễ sinh ra tranh chấp hợp đồng tín dụng, dễ làm cho các TCTD phạm luật. Chẳng hạn, một dự án đầu tư mang lại một tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là 11,5 %/năm, lúc khác đã có thể được xem là "có hiệu quả", nhưng lúc này thì chưa hẳn vì nếu không đầu tư mà đem tiền gửi vào ngân hàng cũng được một số lãi tương đương. Nên, nếu trừ chi phí cơ hội thì dự án thành không có hiệu quả. Hoặc như khoản vay của các doanh nghiệp hiện tại đang làm ăn không có lợi nhuận, thua lỗ, ...
Điều hết sức đáng lo ngại là Thông tư số 12 không tuân thủ Nghị quyết số 23 của Quốc hội khi Thông tư này qui định các TCTD được cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với cả các nhu cầu vốn phục vụ đời sống. Các Nghị quyết của Chính phủ có liên quan như Nghị quyết số 30 ngày 11/12/2008, Nghị quyết số 12 phiên họp Chính phủ thường ký tháng 2 năm 2009, Nghị quyết số 18 ngày 6/4/2010 đều chỉ đạo NHNN hướng dẫn các TCTD thực hiện cho vay theo cơ chế lãi suất thoả thuận đối với "dự án sản suất, kinh doanh có hiệu quả theo Nghị quyết của Quốc hội", mà không có nghị quyết nào qui định NHNN cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với nhu cầu vốn phục vụ đời sống.
Và gần đây khi chủ trì buổi làm việc tại NHNN ngày 20/4/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo "NHNN chú ý chỉ đạo, hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo cơ chế lãi suất thoả thuận đối với dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo Nghị quyết của Quốc hội".
Giải pháp hợp thức để tranh chấp không phát sinh
Nhưng, điều nguy hiểm là TCTD phải đối mặt với rủi ro về hợp đồng tín dụng vô hiệu do vi phạm pháp luật về lãi suất cho vay một khi khách hàng khởi kiện. Và, khách hàng có thể kiện bất cứ lúc nào vì Bộ luật dân sự năm 2005 không hạn chế về thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vi phạm pháp luật.
Điều này làm tăng khả năng mất an toàn hoạt động cho hệ thống các TCTD. Bởi vì, theo Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật (khoản 2 Điều 83) thì hướng dẫn hay qui định của NHNN mà trái Nghị quyết của Quốc hội sẽ không có giá trị áp dụng.
Nếu cho rằng, thời điểm hiện nay là phù hợp để thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, chỉ có một cách duy nhất cho NHNN thực hiện được điều này mà không vi phạm pháp luật là NHNN ấn định lãi suất cơ bản ở mức đủ lớn để khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 không phát sinh tác dụng đối với các TCTD.
Chẳng hạn, NHNN chỉ cần ấn định lãi suất cơ bản mức 9%/năm trở lên và thực hiện các biện pháp hạ lãi suất mà NHNN lựa chọn thì sẽ không có trần lãi suất trên thực tế đối với các TCTD.
Luật NHNN không qui định một sự ràng buộc nào về lượng giữa lãi suất cho vay của các TCTD với lãi suất cơ bản, và vì điều mà các TCTD thực sự quan tâm đó là lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu cũng như các điều kiện và mức độ NHNN thoả mãn nhu cầu của các TCTD về tín dụng từ NHNN.
Muốn cho trần lãi suất trở thành trần hình thức hay muốn dỡ bỏ chế độ trần lãi suất đối với các TCTD mà lãi suất cho vay của các TCTD không vượt mức mong muốn của NHNN thì vấn đề cốt lõi là NHNN phải thực hiện được cân bằng quan hệ cung cầu tín dụng ngân hàng tại mức lãi suất mong muốn của NHNN.
Để cân bằng cung cầu tín dụng ngân hàng, có nhiều cách. Trong đó có những cách mà NHNN đã công bố như tăng mức độ đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các TCTD, ... nhưng một trong các cách mà NHNN cần hết sức quan tâm là kiểm soát tốt, có hiệu qủa đối với chất lượng tín dụng của các TCTD.
Khi những ràng buộc pháp lý còn hiệu lực thì NHNN cũng như các TCTD cần định lượng những tiêu chí trong quá trình thực hiện Thông tư số 12 của NHNN để tránh hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
(Theo Vũ Khôi Nguyên // Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Bài viết này nhằm phân tích hành vi của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc tăng lãi suất theo cái nhìn của “lý thuyết trò chơi”, qua đó đề xuất những biện pháp hạn chế tình trạng trên tái diễn. Chúng tôi giới thiệu như một ý kiến tham khảo.
(Tinkinhte.com tổng hợp)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com