Cạnh tranh ngân hàng nhìn từ góc độ khả năng sinh lời Thị phần ngân hàng đã có những thay đổi quan trọng trong thời gian qua. Đâu là những nhân tố quan trọng làm thay đổi vị thế cạnh tranh, thể hiện ở sự thay đổi thị phần, của hai nhóm ngân hàng quốc doanh và thương mại cổ phần? Những thay đổi về thị phần Thị phần ngân hàng đã có những thay đổi ngoạn mục kể từ năm 2002 đến nay. Nếu vào năm 2002, nhóm các ngân hàng quốc doanh được xem có vị thế thống lĩnh với thị phần huy động cho vay và huy động vốn lần lượt là 80% và 79% thì đến năm 2008 các con số này lần lượt là 52% và 60%. Trong khi đó, nhóm các ngân hàng cổ phần có sự trỗi dậy mạnh mẽ, từ thị phần cho vay và huy động vốn lần lượt là 10% và 9% vào năm 2002, đến năm 2008 tăng lên mức 32% và 29%. Còn lại thị phần của nhóm các chi nhánh ngân hàng nước ngoài lại khá ổn định trong khoảng thời gian 2002-2008. Vấn đề đặt ra: đâu là những nhân tố quan trọng làm thay đổi vị thế cạnh tranh, thể hiện ở sự thay đổi thị phần, của hai nhóm ngân hàng nói trên? Đó là mục tiêu chính của những phân tích về khả năng sinh lời của bài viết này, dựa vào bộ cơ sở dữ liệu tính toán từ các báo cáo tài chính của các ngân hàng có liên quan kể từ năm 2002-2008. Đối với các ngân hàng quốc doanh, bốn ngân hàng lớn nhất đã được chọn là đối tượng nghiên cứu, bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Ở đây phải nói thêm là Vietcombank tuy đã cổ phần hóa, nhưng do có tỷ lệ cổ phần nhà nước áp đảo, nên tác giả vẫn giữ trong nhóm các ngân hàng thương mại quốc doanh. Riêng số liệu thị phần, do dựa vào các báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước, sẽ là số liệu của tất cả năm ngân hàng thương mại quốc doanh, tức là kể cả Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB). Còn đối với các ngân hàng thương mại cổ phần, bốn ngân hàng cổ phần lớn nhất được chọn theo tiêu chí tổng tài sản để phân tích, so sánh khả năng sinh lời là ACB, Sacombank, Eximbank và Techcombank. Cũng tương tự như các ngân hàng quốc doanh, số liệu thị phần là của tất cả các ngân hàng cổ phần, được trích xuất từ các báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước. Các phân tích về khả năng sinh lời Chúng tôi bắt đầu bằng việc sử dụng tỷ lệ chênh lệch lãi suất bình quân (tổng thu từ lãi trên tổng tài sản sinh lời trừ đi tổng chi phí trả lãi trên tổng nguồn vốn phải trả lãi) trong phân tích khả năng sinh lời của hai nhóm ngân hàng quốc doanh và cổ phần. Tỷ lệ này dùng để đo lường hiệu quả hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay. Bên cạnh đó, nó cũng được sử dụng trong việc đánh giá cường độ cạnh tranh trong hai lĩnh vực hoạt động truyền thống của các ngân hàng thương mại. Ngoại trừ hai năm 2002 và 2003, thì từ năm 2004 trở về sau, thời kỳ cạnh tranh mạnh mẽ nhất giữa hai nhóm quốc doanh và cổ phần lại chứng kiến một lợi thế cạnh tranh khá rõ của nhóm các ngân hàng quốc doanh so với các ngân hàng cổ phần xét trên tỷ lệ chênh lệch lãi suất bình quân (xem bảng 3). Tỷ lệ chênh lệch lãi suất của nhóm các ngân hàng quốc doanh trong hai năm 2007, 2008 lần lượt là 2,82% và 3,05% trong khi đó, con số của nhóm bốn ngân hàng cổ phần là 1,95% và 2,85%. Thế nhưng, đi sâu hơn, chúng ta hãy xem lợi thế đó đến từ hoạt động nào của hai nhóm ngân hàng được xem xét: cho vay - đầu tư, huy động vốn, hay cả hai? Trước hết, hãy xem xét tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net Interest Margin - NIM, được tính bằng cách lấy tổng thu nhập lãi ròng từ cho vay và đầu tư chia cho tổng tài sản sinh lời). NIM được sử dụng để đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Ngoại trừ hai năm 2004 và 2005, thì trong các năm phân tích còn lại, NIM của nhóm các ngân hàng cổ phần có phần cao hơn nhóm các ngân hàng quốc doanh (xem bảng 4). Do không đủ dữ liệu để có thể tính toán được các chỉ tiêu chi tiết khác có liên quan như lãi suất cho vay bình quân, lãi suất huy động vốn bình quân... phân tích NIM với các số liệu đã được tính toán ở bảng 4 chưa thể cho chúng ta một kết luận thuyết phục về việc, giữa cho vay - đầu tư hay huy động vốn, đâu là thế mạnh hơn của một trong hai nhóm ngân hàng. Tuy nhiên, nếu xét đến vấn đề nợ xấu của nhóm các ngân hàng quốc doanh, thì chúng ta có thể đi đến nhận định rằng nợ xấu và từ đó, các khoản chi phí cho dự phòng rủi ro tín dụng là một nguyên nhân quan trọng đưa đến tính kém hiệu năng trong các hoạt động tín dụng của các ngân hàng quốc doanh so với các ngân hàng cổ phần. Vào thời điểm cuối năm 2008, tính toán theo Tiêu chuẩn Kế toán Việt Nam (VAS), nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh chiếm khoảng 1-4% tổng dư nợ, trong khi tỷ lệ này của 10 ngân hàng cổ phần hàng đầu là dưới 2%. Nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh chắc chắn có liên quan đến nhóm khách hàng “chiến lược” của các ngân hàng này - đó là các doanh nghiệp quốc doanh. Các ngân hàng quốc doanh vẫn là nhà cung ứng vốn chính cho các doanh nghiệp quốc doanh. Theo các số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, trong khoảng thời gian phân tích, cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh chiếm 30-40% tổng dư nợ của các ngân hàng quốc doanh. Trong các quan hệ tín dụng có tính chất “anh em” này, những “ưu tiên” cho các khoản tín dụng trung và dài hạn về số lượng, về thời hạn, điều kiện đảm bảo và phương thức hoàn trả vốn gốc lại chứa đựng thêm những rủi ro tiềm ẩn khác cho các ngân hàng quốc doanh. Chẳng hạn, xét việc cho vay tín chấp các doanh nghiệp quốc doanh (chắc chắn là chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng cho vay của các ngân hàng quốc doanh): một khi xảy ra vấn đề nợ xấu, thì các khoản trích lập dự phòng rủi ro sẽ cao hơn nhiều so với trường hợp các khoản cho vay đã được bảo đảm 100%. Đến đây, chúng ta tiếp tục phân tích NIM trong mối quan hệ với tỷ lệ chênh lệch lãi suất bình quân. Theo lý thuyết, hai tỷ lệ này thông thường vận động cùng chiều với nhau. Thế nhưng, kết quả tính toán qua hai bảng 3 và 4 đã cho chúng ta một kết quả khác. Tỷ lệ chênh lệch lãi suất bình quân của các ngân hàng quốc doanh cao hơn các ngân hàng cổ phần nhưng NIM của các ngân hàng cổ phần lại cao hơn các ngân hàng quốc doanh. Như vậy, một phương diện khác cần phải được làm rõ hơn: phải chăng các ngân hàng quốc doanh có những lợi thế đối với các hoạt động huy động nguồn vốn? Mặc dù không thể có các số liệu minh chứng, nhưng chúng tôi có những cơ sở xác tín để tin rằng điều đó là đúng. Trước hết, mạng lưới rộng lớn các chi nhánh bao phủ gần như toàn quốc của các ngân hàng quốc doanh, đặc biệt là Agribank với hơn 2.000 chi nhánh, là lợi thế tuyệt đối của các ngân hàng này trong việc huy động vốn tiết kiệm từ dân cư. Kế đến, đó là lợi thế huy động nguồn vốn to lớn với giá rẻ từ tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp nhà nước, đối tượng khách hàng truyền thống của các ngân hàng quốc doanh mà các ngân hàng cổ phần tiếp cận có phần khó khăn hơn nhiều. Bên cạnh đó, các ngân hàng quốc doanh lại có thể hưởng dụng (dù là tạm thời) những nguồn vốn to lớn từ Chính phủ, chẳng hạn, các nguồn liên quan đến viện trợ, các nguồn vốn tài trợ theo các chương trình. Đó là chưa kể đến các nguồn vốn rất dồi dào từ kho bạc, nhất là trong thời kỳ trước năm 2008.
( TS. Trương Quang Thông (Đại học Kinh tế TPHCM) // Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Bàn thêm về cạnh tranh ngân hàng
(Theo Lê Hoàng Tùng // Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động ngân hàng nếu xét trên các tín hiệu: tỷ lệ cho vay, huy động so với GDP, số tài khoản ngân hàng trên 1.000 dân, số điểm giao dịch ngân hàng trên 1.000 dân... (các tỷ lệ này hiện đều thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực).
Bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận mức độ cạnh tranh đang ngày càng gay gắt trong lĩnh vực này. Số lượng các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam đã tăng lên rất đáng kể trong những năm gần đây, từ 9 (năm 1991) lên tới khoảng 90 ở thời điểm hiện nay. Cùng với đó, thị phần của các NHTM quốc doanh, vốn độc chiếm thị trường trong một thời gian dài, cũng đã giảm đi rất đáng kể.
Tác giả đã rất có lý khi nêu lên thực tế đó và cũng đã đưa ra những nhận xét, phân tích tương đối khách quan khi so sánh khả năng sinh lời của các NHTM quốc doanh với các NHTM cổ phần. Và có lẽ, độc giả cũng đã thu nhận được những thông tin tương đối mới mẻ và phần nào hữu ích từ nội dung bài viết này. Tuy nhiên, một số nội dung của bài viết có thể sẽ có giá trị tham khảo cao hơn nếu tác giả đặt vấn đề một cách sát thực hơn cũng như đưa ra những thông tin chính xác hơn.
Lý luận đúng?
Thứ nhất, ở Việt Nam có năm NHTM nhà nước (tính cả Vietcombank và Vietinbank ở thời điểm phân tích) nhưng có tới 37 NHTM cổ phần. Vì vậy, việc tác giả chỉ lấy số liệu của bốn NHTM cổ phần làm đại diện cho nhóm NHTM cổ phần trong khi sử dụng số liệu của cả năm NHTM nhà nước trong tổng hợp phân tích đã tạo ra một sự bất đối xứng và không tương quan về thông tin cũng như đã làm cho các nhận định thiếu tính đại diện và phần nào chủ quan.
Thứ hai, khi tính tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net Interest Margin - NIM) thay vì chia cho tổng tài sản sinh lời bình quân như thông lệ chung, tác giả chỉ chia cho tổng tài sản sinh lời. Cách thức này có lẽ cũng đã được tác giả sử dụng khi tính toán các chỉ tiêu khác như: mức chênh lệch lãi suất bình quân, ROA, ROE...
Điều này cũng là một lý do khiến cho kết quả tính toán chưa thực sự chính xác do thường có sự khác biệt khá lớn giữa số thời điểm và số bình quân. Chẳng hạn, NIM của VCB năm 2006, 2007 và 2008 tương ứng sẽ là 2,58%, 2,26% và 3,26%, của ACB tương ứng sẽ là 2,67%, 2,28% và 3,35%... rõ ràng khác với kết quả tính toán của tác giả.
Khép lại bài viết trên TBKTSG số 44, tác giả nhận xét các NHTM nhà nước có tỷ lệ chênh lệch lãi suất bình quân cao hơn các NHTM cổ phần và đưa ra nhận định là các NHTM nhà nước có những lợi thế trong huy động nguồn vốn giá rẻ. Trên thực tế, cũng phải thừa nhận là NHTM nhà nước có những lợi thế nhất định về nguồn vốn do số lượng và quy mô khách hàng là tổ chức lớn, phần lớn là các NHTM đầu mối trong thanh toán... Nhưng những lợi thế này đang dần mất đi nhanh chóng do sự cạnh tranh, do sở hữu chéo của các tập đoàn lớn trong các NHTM cổ phần...
Thêm vào đó các NHTM nhà nước lại có bất lợi về lãi suất đầu ra (bình quân thấp hơn các NHTM cổ phần) do vậy chênh lệch lãi suất bình quân không cao hơn, thậm chí còn thấp hơn các NHTM cổ phần trong những giai đoạn nhất định. Theo kết quả tính toán của chúng tôi, chênh lệch lãi suất bình quân của VCB năm 2007 là 2,05% trong khi của ACB, STB là 2,36 và 3,20%; năm 2008 là 2,97% trong khi ACB, STB là 2,59 và 3,66%.
Thứ ba, trong kỳ tiếp theo của bài viết với chủ đề “ROA và ROE của ai cao hơn” (TBKTSG số 45), tác giả đã có một số nhận xét chưa thực sự chuẩn xác như: cho rằng các NHTM nhà nước có tỷ trọng tài sản sinh lời cao do giá trị tài sản cố định thấp (tài sản không sinh lời còn bao gồm tiền mặt, tài sản có khác...); giá trị quyền sử dụng đất của các NHTM nhà nước chưa được ghi nhận đúng (hiện tại chuẩn mực kế toán Việt Nam chưa quy định đánh giá lại giá trị quyền sử dụng đất để ghi nhận theo giá trị thị trường hàng năm và tất cả các NHTM đều áp dụng như vậy, không chỉ NHTM nhà nước; phần lớn bất động sản của các NHTM nhà nước cũng được mua/nhận chuyển nhượng với mức giá thị trường tại thời điểm nhận chuyển nhượng...).
Và số liệu có chính xác?
Do không có điều kiện và thời gian để kiểm chứng tất cả các số liệu, chúng tôi đã tiến hành tính toán lại đối với một số số liệu được tác giả tính toán và nêu trong bài viết mà thoạt nhìn đã thấy rất vô lý. Và kết quả đã chứng minh cảm nhận của chúng tôi là đúng.
Ví dụ, trong bài viết, tác giả tính ROA, ROE của VCB năm 2008 chỉ là 0,55% và 9,12%. Điều này thật khó có thể tin được vì theo hiểu biết của chúng tôi, Vietcombank là một NHTM lâu đời ở Việt Nam và trong suốt gần nửa thế kỷ qua luôn khẳng định vị thế là NHTM hàng đầu tại Việt Nam xét trên nhiều phương diện trong đó có phương diện hiệu quả hoạt động.
Năm 2008 có lẽ là một năm tương đối đặc thù với VCB do hoạt động được chia thành hai giai đoạn riêng biệt (NHTM nhà nước đến 31-5-2008 và NHTM cổ phần kể từ 2-6-2008 - thời điểm chuyển đổi). Từ Báo cáo tài chính giai đoạn năm tháng đầu năm và bảy tháng cuối năm của VCB (được kiểm toán, đăng tải trên website của ngân hàng này), chúng tôi xác định được các số liệu: tổng lợi nhuận thuần sau thuế là 2.520 tỉ đồng, tổng tài sản và vốn chủ sở hữu đầu năm/cuối năm tương ứng là 197.363/221.952 và 13.528/13.790 tỉ đồng. Do đó, ROA và ROE phải là 1,20% và 18,45%, khác nhiều so với số liệu của tác giả.
Cũng từ báo cáo tài chính của Vietcombank, chúng tôi ghi nhận, thu nhập ngoài lãi của ngân hàng này trong năm 2008 là 2.366 tỉ đồng. Tổng tài sản có sinh lời của VCB đầu năm/cuối năm 2008 là 191.208/215.599 tỉ đồng, như vậy tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên của VCB phải là 2.366/((191.208+215.599)/2) = 1,16%, trong khi số liệu tính toán của tác giả chỉ là 0,72%.
Bỏ qua đóng góp của các NHTM nhà nước đối với sự phát triển của thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam cũng như những đóng góp rất đáng kể của khối này cho nền kinh tế quốc dân, nếu chỉ thuần túy xem xét khả năng sinh lời thì nhiều NHTM nhà nước hiện vẫn có mức sinh lời cao hơn nhiều so với không ít các NHTM cổ phần khác.
Ý kiến của TS. Trương Quang Thông Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn những nhận xét và góp ý của ông Lê Hoàng Tùng về phương pháp và dữ liệu sử dụng trong bài viết của tôi mang tên “Cạnh tranh ngân hàng nhìn từ góc độ khả năng sinh lời” đã được đăng trên TBKTSG số 44 và 45-2009. Tôi xin nói thêm về vấn đề phương pháp. Giới ngân hàng ai cũng phải thừa nhận rằng bốn ngân hàng VCB, BIDV, Vietinbank và Agribank từng là bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất, do đó, việc chọn bốn ngân hàng cổ phần lớn nhất về quy mô tổng tài sản (ACB, STB, EIB và TCB) để phân tích so sánh là một sự lựa chọn phù hợp. Chỉ có vấn đề phát sinh khi xử lý số liệu trong quá trình phác thảo bài viết. Các tỷ lệ tài chính dùng để đánh giá, đo lường khả năng sinh lời của một ngân hàng thương mại như ROE, ROA, NIM, chênh lệch lãi suất bình quân... tùy theo tính khả dụng của dữ liệu khi tính toán, người ta có thể sử dụng các mẫu số như tổng tài sản, tổng vốn chủ sở hữu, tổng nguồn vốn phải trả lãi dưới dạng số bình quân năm, số bình quân giữa đầu kỳ và cuối kỳ và số dư cuối kỳ. Trong bài viết của tôi, phần mẫu số của các tỷ lệ tài chính đã được lấy từ số dư cuối kỳ trích xuất từ các báo cáo tài chính mà các ngân hàng có liên quan đã đăng trên các trang web. Dữ liệu ban đầu do đó là hoàn toàn đáng tin cậy. Bên cạnh đó, chuỗi thời gian phân tích là bảy năm, với một cách xử lý số liệu nhất quán theo thời gian và đối tượng phân tích, nên các kết quả thu được vẫn có ý nghĩa phân tích của chúng. Một mong muốn mà tôi đã gửi gắm trong bài viết của mình là, các ngân hàng thương mại quốc doanh, do được hưởng dụng những lợi thế và có tiềm lực rất lớn, hoàn toàn có thể phát triển những hoạt động sinh lợi thực sự, trở thành những địa chỉ hấp dẫn thu hút những nhà đầu tư trong và ngoài nước trong khuôn khổ chương trình cổ phần hóa đã và đang thực hiện. Tôi vẫn tin vào tiềm lực của các ngân hàng này và cũng tin tưởng sâu sắc rằng, những nhà đầu tư tài chính hiện nay hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt khi thu nhận và sàng lọc những thông tin đa chiều, chứ không phải chỉ từ một nguồn đơn lẻ nào đó. |
Mức độ cạnh tranh trong ngành ngân hàng Việt Nam
(ThS. Trịnh Việt Dũng // Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Bài viết này sử dụng mô hình của Michael Porter (Năm lực lượng của Porter - Porter’s 5 forces) để nhìn vào thị trường ngân hàng Việt Nam và phân tích những lực lượng cạnh tranh, các xu hướng phát triển cũng như cơ hội khai thác để tạo nên lợi thế cạnh tranh phù hợp với nguồn lực của các ngân hàng.
Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Nếu các ngân hàng mới dễ dàng gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc càng gia tăng. Nguy cơ từ các ngân hàng mới sẽ phụ thuộc vào “độ cao” của rào cản gia nhập. Theo các cam kết khi gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình bảy năm. Ngành ngân hàng đã có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam và sự xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần trong ngành ngân hàng của các định chế tài chính nước ngoài theo cam kết trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ.
Còn theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt Nam phải gỡ bỏ hoàn toàn các quy định về khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài từ năm 2008.
Đã có năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép thành lập tại Việt Nam. Tuy nhiên khi nhìn vào con số các ngân hàng nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài có vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân hàng 100% vốn nước ngoài nhất định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự xuất hiện của các ngân hàng có nguồn gốc nội địa đang được nâng cao lên sau khi Chính phủ tạm ngưng cấp phép thành lập ngân hàng mới từ tháng 8-2008. Ngoài các quy định về vốn điều lệ, quãng thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng mới thành lập còn bị giám sát chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên điều đó sẽ không thể ngăn cản những doanh nghiệp, đủ điều kiện, tham gia vào ngành ngân hàng một khi Chính phủ cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị trường mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu cũng như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được. Những điều này đặc biệt quan trọng bởi vì nó sẽ quyết định khả năng tồn tại của một ngân hàng đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một thương hiệu bền vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả và khác biệt cộng với một cơ sở khách hàng đông đảo và trung thành, chi phí chuyển đổi (switching cost) để lôi kéo khách hàng của ngân hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó họ bắt buộc phải cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định gia nhập thị trường hay không. Thực tế trên thị trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy chi phí chuyển đổi nhìn chung không cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác biệt về chiến lược sản phẩm, dịch vụ.
Một yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một chút và tạo một lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là hệ thống phân phối. Các ngân hàng thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc rối trong việc tìm một địa điểm ưng ý để đặt văn phòng chính cũng như các chi nhánh văn phòng giao dịch bởi vì các vị trí đẹp và tiện lợi đều đã bị các ngân hàng đang hoạt động dành mất. Tuy vậy, các ngân hàng thành lập sau này vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để phát triển hệ thống kinh doanh của mình thông qua Internet banking hoặc hệ thống ATM.
Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam hiện tại trong bối cảnh Việt Nam cũng như thế giới đang bị bao trùm bởi cuộc khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng mới trong tương lai gần là khá thấp. Nhưng một khi kinh tế thế giới hồi phục cộng với sự mở cửa của ngành ngân hàng theo các cam kết với WTO và các tổ chức khác, sự xuất hiện của các ngân hàng mới là một điều gần như chắc chắn.
Nguy cơ bị thay thế
Cơ bản mà nói, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có thể xếp vào 5 loại:
• Là nơi nhận các khoản tiền (lương, trợ cấp, cấp dưỡng…)
• Là nơi giữ tiền (tiết kiệm…)
• Là nơi thực hiện các chức năng thanh toán
• Là nơi cho vay tiền
• Là nơi hoạt động kiều hối
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ, hóa đơn trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hàng này thường chuyển sang sử dụng một ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến cho người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Ngay ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ đợi nhân viên đi lấy máy đọc thẻ hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử dụng thẻ để thanh toán. Chính sự bất tiện này cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người tiêu dùng muốn giữ và sử dụng tiền mặt hơn là thông qua ngân hàng.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự do cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7-8% một năm.
Quyền lực của khách hàng
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ là việc các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng không đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của mình nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của khách hàng. Nhưng không vì thế mà ta có thể đánh giá thấp quyền lực của khách hàng trong ngành ngân hàng tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn huy động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Trong khi đó, như đã nói ở phần trên, nguy cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu dùng, là khá cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
Quyền lực của các nhà cung cấp
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam các ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tùy theo điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống, ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này lại làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì như thế nào? Không nhắc đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị trường chứng khoán mà chỉ nói đến những đại cổ đông có thể có tác động trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của một ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều nhận đầu tư của một ngân hàng khác. Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu như họ có đủ cổ phần và việc sáp nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra. Ở một khía cạnh khác, ngân hàng đầu tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân hàng được đầu tư.
Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
Trong năm 2008, McKinsey dự báo doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam có thể tăng trưởng đến 25% trong vòng 5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ cao nhất châu Á. Tuy khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, tác động xấu tới ngành ngân hàng nhưng thị trường Việt Nam chưa được khai phá hết, tiềm năng còn rất lớn. Ảnh hưởng tạm thời của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ khiến cho các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến việc cường độ cạnh tranh sẽ tăng lên. Nhưng khi khủng hoảng kinh tế qua đi, với một thị trường tiềm năng còn lớn như Việt Nam, các ngân hàng sẽ tập trung khai phá thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến cường độ cạnh tranh có thể giảm đi.
Cường độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện của nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có một phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách hàng mở rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo.
Ngân hàng ngoại cũng không vướng phải những rào cản mà hiện nay nhiều ngân hàng trong nước đang mắc phải, điển hình là hạn mức cho vay chứng khoán, nợ xấu trong cho vay bất động sản. Họ có lợi thế làm từ đầu và có nhiều chọn lựa trong khi với không ít ngân hàng trong nước thì điều này là không thể. Ngoài ra, ngân hàng ngoại còn có không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn (điển hình là hệ thống Internet banking).
Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên nhiều nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này, các ngân hàng trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhân sự... khá quy mô. Lợi thế của ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách hàng có sẵn. Ngân hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối với những khách hàng quan trọng của họ.
Xu hướng trong ngành ngân hàng
Hiện nay Việt Nam đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng thực sự mạnh tầm cỡ quốc tế. Nhìn chung, các ngân hàng đã đua nhau mở rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn (phát triển theo chiều rộng). Việc này dẫn đến tình trạng các ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà quên mất các sản phẩm và dịch vụ tiện ích kèm theo (chiều sâu). Đồng thời, các ngân hàng mở rộng quy mô nhưng do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho nên công tác quản trị lại không theo kịp quy mô phát triển.
Khủng hoảng kinh tế cũng mang lại rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng, một số ngân hàng đã không thể duy trì được mức tăng trưởng trong năm vừa qua. Đây chính là cơ sở để nhiều chuyên gia về sáp nhập (M&A) đưa ra nhận định rằng xu hướng sáp nhập trong ngành ngân hàng đang đến gần.
Tuy nhiên, ngành ngân hàng là một trong những ngành nghề nhạy cảm, do vậy việc sáp nhập chỉ có thể xảy ra trong vòng một, hai năm nữa khi ngành ngân hàng đã được mở nhiều cửa hơn theo cam kết với WTO.
(Tinkinhte tổng hợp từ Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com