Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Nguy cơ khủng hoảng và câu chuyện về hai chính sách tiền tệ

Nguy cơ khủng hoảng kinh tế ở VN tuy đã lắng xuống nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn cao. Những bài học về chính sách tiền tệ đối phó với cơn khủng hoảng của ECB và FR rất có thể cũng hữu ích với tình hình tài chính của VN hiện nay

Ngân hàng trung ương châu Âu  (The European Central Bank - ECB) và Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve - FR) đang cùng phải đối mặt với các vấn đề tương tự, nhưng họ lại theo đuổi những chính sách khác nhau.

Cùng đối phó với một vấn đề, nhưng ECB và FR lại chọn hai chính sách hoàn toàn khác nhau Ảnh nguồn: www.lacountyfraud.org

Ngân hàng trung ương thì tăng các lãi suất trong khi Cục Dự trữ Liên bang lại cắt giảm chúng. Lãi suất ngắn ngày của quỹ liên bang là 2% trong khi của Ngân hàng là 4,25%. Vậy ngân hàng nào đang đi đúng hướng? Hay có thể cả hai?

Lạm phát là một vấn đề nghiêm trọng ở cả khu vực châu Âu và Mỹ, với tỷ lệ lạm phát tiêu dùng hàng đầu suốt 12 tháng qua là 4% ở khu vực châu Âu và 5% ở Mỹ. Cả hai nền kinh tế hiện đang đối mặt với hoạt động kinh tế xuống dốc, đó là việc giảm sút và sản xuất công nghiệp thấp kém.

Mức tăng mạnh mẽ của giá cả năng lượng và thực phẩm suốt 12 tháng qua đương nhiên sẽ cuốn theo sự tăng giá của các sản phẩm khác tại Mỹ và châu Âu. Thách thức đầu tiên đối với cả hai ngân hàng là làm sao hạn chế cú sốc lạm phát này trôi qua 1 lần, tránh việc tăng lương sẽ xảy ra nếu các chủ lao động cố gắng bù đắp mức hao hụt của thu nhập thực tế.

Đó là kiểu lạm phát theo hình xoắn ốc lương - giá đã từng đẩy tỷ lệ lạm phát của những năm 70 lên mức 2 con số. Để tránh sự lặp lại này, cần thuyết phục quần chúng rằng mức lạm phát cao của hôm nay sẽ sớm giảm xuống.

Mặc dù những vấn đề tương tự mà hai ngân hàng đã đối mặt, vẫn có những khác nhau quan trọng để biện minh cho những chiến lược riêng biệt của cả hai.

Sự đối lập giữa việc ngân hàng trung ương ủy nhiệm để đạt được sự ổn định giá cả còn Liên bang thì “ủy nhiệm kép” (dual mandate) nhằm cân bằng các mục tiêu ổn định giá cả và việc làm, điều này không chỉ là sự ngẫu nhiên của lịch sử lập pháp mà phản ánh những khác nhau cơ bản giữa hai nền kinh tế.

Những khác biệt này gây thêm khó khăn cho việc chế ngự những kỳ vọng lạm phát ở châu Âu, do đó khiến cho ngân hàng trung ương phải có chính sách cứng rắn hơn.

Vai trò của các nghiệp đoàn là sự khác biệt quan trọng nhất. Chỉ 7,5% những người lao động trong các đơn vị tư nhân là các thành viên nghiệp đoàn và họ tập trung ở những ngành như ô tô, hàng không, xây dựng và các ngành công nghiệp đình trệ khác.

Ngược lại, có hơn 25% người lao động ở châu Âu là các thành viên của nghiệp đoàn và tại 1 số nước châu Âu, mức lương được thiết lập trong các hợp đồng của nghiệp đoàn tự động được gia tăng cho các công ty khác trong cùng một ngành công nghiệp.

Cũng vì quyền lực này của nghiệp đoàn mà Ngân hàng trung ương buộc phải thuyết phục các thành viên nghiệp đoàn và các lãnh đạo của họ rằng cần phải kéo lạm phát xuống tới mức mục tiêu dưới 2%.

Các ngân hàng ở VN, sẽ cân nhắc chính sách nào cho phù hợp với tình hình và bối cảnh kinh tế của mình? Ảnh nguồn: www.nhscampaign.org

Lập trường cứng rắn của Ngân hàng trung ương và sự chú trọng đặc biệt vào ổn định giá cả là yếu tố quyết định để thay đổi những kỳ vọng lạm phát và thuyết phục các nghiệp đoàn chấp nhận sự tăng giá của thực phẩm và năng lượng mà không tạo áp lực vào việc tăng lương bù đắp hao hụt.

Trái lại, Cục Dự trữ Liên bang không có những lo lắng tương tự về quyền lực của nghiệp đoàn và lợi thế tập thể. Việc thiết lập mức lương bị phân quyền và các hợp đồng lương không có những mối liên hệ thông thường với những hậu quả của cơn lạm phát đã tăng cường cho cơn lạm phát theo hình xoáy trôn ốc lương - giá của những năm 70.

Những khác nhau trong lịch sử lạm phát cũng ảnh hưởng tới các chính sách thích hợp ngày nay của Ngân hàng trung ương và Cục Dự trữ liên bang. Mặc dù người Mỹ nhớ cuộc lạm phát 2 con số vào cuối những năm 70, đầu những năm 80, nhưng họ cũng không có kinh nghiệm tương tự như những cuộc lạm phát phi mã ở Đức và các nước châu Âu diễn ra trước kia.

Ngân hàng trung ương theo đuổi một chính sách mục tiêu lạm phát cứng rắn để thuyết phục người châu Âu rằng thậm chí không có chút khả năng nhỏ nào quay trở lại những tình huống đó.

Cuối cùng, Ngân hàng trung ương nhận ra họ vẫn còn là một tổ chức rất trẻ và cần phải chứng minh với cộng đồng châu Âu rằng họ sẽ theo đuổi truyền thống chống lạm phát thành công của ngân hàng Bundesbank, Đức.

Nhưng một thành tích tương đối tốtcách đây một thập kỷ không còn là bài học xác thực cho tương lai nữa. Ngân hàng trung ương hiện giờ đang đối mặt với thách thức đầu tiên là lạm phát nhập khẩu cao, đồng thời việc mở rộng số hội viên của hiệp hội tiền tệ châu Âu đang mang đến những đại diện biểu quyết mới cho Ngân hàng trung ương, những người mà quan điểm của họ vẫn cần phải được thẩm định.

Quyền lực của các hiệp hội ở châu Âu, lịch sử của cuộc lạm phát phi mã và nhu cầu phát triển sự tín nhiệm đối với một tổ chức non trẻ, tất cả biện minh cho lập trường vững vàng của Ngân hàng trung ương.

Vì Cục Dự trữ liên bang không có những vấn đề này nhưng lại đối mặt với một sự suy thoái tiềm năng rất nghiêm trọng nên họ đã chuẩn bị để mạo hiểm rằng điểm yếu trong việc làm và sự suy giảm chung trong hoạt động kinh tế của Mỹ sẽ ngăn chặn cơn lạm phát theo hình xoáy trôn ốc lương - giá mà không cần tăng cao hơn tỷ lệ lãi suất nữa.

Nếu giá lương thực và năng lượng vẫn duy trì ở mức như ngày nay và chí phí cho tiền lương không tăng, thì lạm phát chỉ số giá tiêu dùng chung cũng sẽ giảm trong năm tới xuống mức thường niên là dưới 3%. Chiến lược lãi suất hiện tại của Dự trữ liên bang có ý nghĩa nhưng sẽ là quá rủi ro đối với Ngân hàng trung ương

( Hoàng Thủy dịch // Bài bình luận của Martin Feldstein, Giáo sư kinh tế của trường Đại học Harvard // Theo Tuanvietnam)

  • Nhìn lại thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm và dự báo
  • Việt Nam: Nghịch lý ngân hàng sống nhờ “bầu sữa” ngân sách
  • Ngân hàng làm gì với thế hệ Y?
  • Thế hệ Y và cuộc cách mạng trong ngân hàng bán lẻ
  • Nguy cơ nợ công Việt Nam thực sự nằm ở đâu?
  • ADB dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,5%
  • Hiểm hoạ từ các "siêu dự án"!
  • Siết mạnh tín dụng cuối năm
  • Điều hành thị trường, thị trường điều khiển
  • Việt Nam có hay chưa tình trạng "bong bóng" tài chính ?
  • Đằng sau câu chuyện tăng trưởng
  • Nợ cao liệu có “hạ gục” nước Mỹ?
  • Tám cách để các ngân hàng có thể tăng nguồn doanh thu
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • TS. Phạm Thế Anh: Xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam
  • Lạm phát gia tăng: nỗi lo không chỉ riêng của Việt Nam
  • Chiến tranh tiền tệ Mỹ -Trung: Âm mưu thiết lập trật tự thế giới mới ?
  • Chính sách tiền tệ: thị trường tiền tệ liệu có rối loạn ?
  • Chính sách tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và những tác động
  • Dự báo xu hướng vận động thị trường tài chính 2010
  • Lãi suất cho vay: Rủi ro pháp lý và sức chịu đựng của doanh nghiệp
  • Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam "lách" luật kiếm siêu lợi nhuận?
  • PGS.TS Trần Hoàng Ngân: 'Việt Nam không nên phá giá tiền đồng'
  • Xu hướng thị trường nhà đất 2010: Nhận định từ các chuyên gia
  • Đồng USD sẽ tăng giá trở lại trong năm 2010
  • Đầu tư vào nhà đất vẫn là số một!