Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 11-1-2007 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Việc gia nhập WTO đã làm tăng uy tín và vị thế kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế. Hơn hai năm gia nhập WTO, chúng ta mới chỉ bước đầu vào sân chơi kinh tế toàn cầu, thời gian còn quá ngắn để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, vẫn cần phải đánh giá về những kết quả đã đạt được khi gia nhập WTO cũng như những vấn đề còn tồn tại đang đặt ra để chủ động đối phó, đưa ra định hướng phát triển trong thời gian tới.
Những tác động đến kinh tế-xã hội của Việt Nam
Để thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập. Gia nhập WTO đã tác động đến nhiều lĩnh vực của Việt Nam, thực tế diễn biến của các chỉ số kinh tế-xã hội góp phần đánh giá những tác động trực tiếp và gián tiếp của việc gia nhập WTO.
![]() |
Ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của WTO |
Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu năm 2008, nhưng GDP của Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng khoảng 6,5%, tuy có giảm hơn so với năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài tăng rất mạnh trong năm 2007, đặc biệt đạt kỷ lục số vốn đăng kí cao gần 64 tỉ USD trong năm 2008. Việc gia nhập WTO sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế qua đó tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn nữa. Một mặt, các cam kết mở cửa thị trường sẽ tác động lên giá nhập khẩu, việc cắt giảm thuế quan sẽ tăng sức ép cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nước, vì vậy việc tái cơ cấu ở một số ngành để đứng vững và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng cao. Mặt khác, thị trường ổn định hơn khi ta gia nhập WTO cũng là điều kiện để cho các ngành phát triển theo định hướng xuất khẩu có hiệu quả hơn so với phát triển theo định hướng thay thế nhập khẩu.
Gia nhập WTO sẽ làm gia tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài cho các sản phẩm. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng 21,9% so với năm 2006, năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, mặt hàng xuất khẩu cũng đa dạng hơn, hàng dệt may và giầy dép trở thành ngành sản xuất có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất do thuế đã được giảm và Hoa Kỳ đã xoá bỏ hạn ngạch đối với mặt hàng này, kết quả trực tiếp có được từ việc đàm phán gia nhập WTO. Một tác động gián tiếp của WTO là sự thay đổi tích cực hơn trong chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, từ sản phẩm thô (dầu mỏ, than đá, gạo) sang sản phẩm chế biến (dệt may, gỗ nhựa), tỷ trọng dầu thô trong kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 21,0% năm 2006 xuống còn 17,5% năm 2007 và 16,5% năm 2008. Doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu vào toàn bộ 148 nước thành viên của WTO với mức thuế ưu đãi, thâm nhập được vào các thị trường trọng yếu trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử; Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu càng cao, nhưng Việt Nam càng có nguy cơ phải đối mặt với những vụ điều tra chống bán phá giá do các thành viên WTO áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, cơ chế phi thị trường mà Việt Nam sẽ chỉ được các nước loại bỏ sau năm 2018 sẽ là một trở ngại lớn đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, vị thế thành viên WTO sẽ giúp Việt Nam thuận lợi hơn trong các vụ kiện do ta có thể phối hợp với các nước thành viên WTO khác có chung lợi ích để có tiếng nói chung.
Sự gia tăng nhập khẩu cũng là một tác động của việc gia nhập WTO, tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,68 tỷ USD, tăng 39,6% so với năm 2006; năm 2008 đạt 79,9 tỷ USD, tăng 27,5% so với năm 2007. Nhập khẩu tăng mạnh do tăng trưởng cao, nhu cầu đầu tư lớn, nguồn vốn FDI nhiều và bản thân cơ cấu kinh tế (như đòi hỏi đầu vào nhập khẩu lớn cho xuất khẩu và sản xuất nói chung) và giá quốc tế các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu trên thị trường thế giới tăng cao.
Trong một nền kinh tế hiện đại, dịch vụ ngày càng trở nên một thành phần quan trọng. Từ năm 2000-2008, dịch vụ đã đóng góp trung bình 38,3% vào GDP. Mở cửa thị trường dịch vụ, Việt Nam cải cách thể chế đem lại môi trường thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ, đem lại cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ cao hơn cho các nhà sản xuất, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Ngày càng có nhiều nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam sẽ mang đến nhiều cơ hội hợp tác hơn cho các doanh nghiệp, nên các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ vốn, nhân sự và công nghệ thông qua việc hợp tác này. Việt Nam cũng phát huy được lợi thế trong các ngành dịch vụ sử dụng trình độ kỹ thuật và chuyên môn cao. Tuy nhiên, cam kết mở cửa thị trường ở một số ngành dịch vụ có thể ảnh hưởng đến thu nhập và việc làm của người lao động. Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đặc biệt các hộ gia đình kinh doanh bán lẻ, có thể sẽ bị các tập đoàn bán lẻ cạnh tranh.
Gia nhập WTO tác động rõ nét nhất là chính sách thương mại, đầu tư trở nên minh bạch hơn và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đây cũng chính là yếu tố làm cho Việt Nam trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn, sự bùng phát luồng vốn FDI trong hai năm lại đây đã cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng vào tiến trình đổi mới cũng như triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tác động vào lĩnh vực công nghiệp khi tham gia vào WTO là chính sách quản lý kinh tế của Việt Nam trở nên minh bạch hơn, giảm phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, làm cho lĩnh vực công nghiệp đạt tỷ lệ tăng trưởng cao, đóng góp 8,48% vào GDP năm 2007, cao hơn năm 2006 và đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã xoá bỏ các biện pháp trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu đối với tất cả các ngành công nghiệp, việc bãi bỏ hai hình thức trợ cấp này sẽ ảnh hưởng đến một số doanh nghiệp nhưng không nhiều.
Sau khi gia nhập WTO, nhập khẩu nông sản của Việt Nam gia tăng, đa số các mặt hàng nông sản nhập khẩu là những mặt hàng Việt Nam chưa sản xuất được hoặc có lợi thế cạnh tranh thấp. Đối với xuất khẩu nông sản, tác động của việc gia nhập WTO là không lớn vì các mặt hàng xuất khẩu chính như gạo, cà phê, cao su từ trước khi gia nhập WTO cũng không gặp rào cản nào. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được mở rộng sang châu Âu và châu Mỹ với hai đối tác chính là EU và Hoa Kỳ, nhưng thị trường xuất khẩu ở châu Á và các nước ASEAN lại bị thu hẹp lại. Việc gia nhập WTO đã cải thiện tích cực môi trường kinh doanh trong nước. Hệ thống chính sách trở nên minh bạch, chế độ quản lý giá, các biện pháp trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu được bãi bỏ, các doanh nghiệp đều được hoạt động trong môi trường kinh doanh bình đẳng. Hội nhập có tác động tích cực đến tạo việc làm cho người dân nhưng chỉ tham gia vào ngành xuất khẩu và đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Tác động chủ yếu là tác động gián tiếp thông qua việc cung cấp dịch vụ cá nhân và cộng đồng, lương thực thực phẩm cho nhóm dân cư có thu nhập được cải thiện, tăng thu ngân sách, trong chừng mực nhất định, cũng đồng nghĩa với việc tăng chi ngân sách cho người nghèo và các chương trình an sinh xã hội.
Những mặt hạn chế
Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã tác động lớn đến kinh tế-xã hội của Việt Nam, đem lại những kết quả như mong muốn: tăng GDP, tăng trưởng xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, phát triển các ngành dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu này còn có những mặt tồn tại, hạn chế buộc chúng ta phải xem xét một cách đầy đủ hơn.
Về năng lực thể chế đã có những chuyển biến tích cực nhưng cần phải tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho phù hợp với cam kết gia nhập WTO và các chuẩn mực kinh tế thị trường, một số văn bản phát luật hướng dẫn thực hiện các cam kết gia nhập WTO chưa được ban hành kịp thời, chưa rõ ràng khiến cho việc thực hiện các cam kết còn khó khăn. Các yếu tố này đã gây khó khăn nhất định cho cơ quan quản lý, cấp phép đầu tư cũng như một số doanh nghiệp, nhà đầu tư muốn hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành nhiều khi còn chưa chặt chẽ, nhất quán và kịp thời; Lạm phát cao, nhập siêu lớn và sự xuất hiện những dấu hiệu dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính-ngân hàng là những vấn đề phức tạp nước ta đang phải đối phó. Vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô đang trở thành đòi hỏi cấp thiết.
Ngành công nghiệp chủ yếu vẫn là sơ chế, gia công với giá trị gia tăng chưa cao và còn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Chủng loại hàng hoá còn đơn điệu, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn yếu. Năng suất lao động trong nông nghiệp còn thấp vì sự dư thừa lao động do chuyển dịch lao động sang công nghiệp và dịch vụ chưa mạnh mẽ. Đời sống người nông dân được nâng cao nhưng lại bị ảnh hưởng bởi lạm phát nên mức độ cải thiện chưa đáng kể.
Xuất khẩu tăng trưởng nhanh song dễ bị tổn thương bởi ảnh hưởng của thị trường thế giới hay việc áp dụng các rào cản thương mại của nước nhập khẩu. Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn thấp; những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể xuất hiện chậm. Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Tuy thị trường tài chính, ngân hàng và thị trường bất động sản khá sôi động, nhưng đến năm 2007, khu vực này vẫn còn nhỏ bé, chiếm chưa tới 2,0% GDP. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cũng đang là yếu tố cần khắc phục trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Định hướng trong thời gian tới
Với những kết quả đã đạt được và những tồn đọng cần được giải quyết sau 2 năm Việt Nam gia nhập WTO, để đưa nền kinh tế nước nhà cất cánh, làm cho đất nước ngày một cường thịnh hơn, hội nhập kinh tế ngày càng sâu hơn, Việt Nam cần phải tập trung vào một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, cần ổn định kinh tế vĩ mô, nhận thức đầy đủ tính chất phức tạp, nghiêm trọng của những rủi ro tài chính, bất ổn kinh tế, xã hội đang phát sinh để có phương thức xử lý thích hợp. Các biện pháp này phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, trong đó có các quy định của WTO.
Thứ hai, tiếp tục thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cam kết đã đưa ra trong WTO, tận dụng tốt những quyền lợi mà thành viên WTO được hưởng, xử lý hài hoà thống nhất mối quan hệ giữa cam kết WTO, nhất là các cam kết dịch vụ, với khuôn khổ pháp lý hiện hành, tránh gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Thứ ba, nghiên cứu và xây dựng thể chế thực thi và giám sát có hiệu lực và hiệu quả các chương trình hành động, ngoài ra cũng cần thiết lập thể chế rà soát chính sách. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, thể chế xã hội như hệ thống thu nhập cá nhân, chính sách bảo hiểm... nhằm tránh gia tăng khoảng cách giàu nghèo khi hội nhập. Nghiên cứu ứng dụng các biện pháp trợ cấp nông nghiệp mà WTO không áp dụng nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống người nông dân.
Thứ tư, về sản xuất và xuất khẩu, cần phát triển các ngành sản xuất sản phẩm có giá trị tăng cao, tập trung vào các mặt hàng chế biến, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, tăng cường công tác xúc tiến thương mại.
Thứ năm, tiếp tục đàm phán với các thành viên WTO về việc công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường và áp dụng đúng quy định của WTO về chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu Việt Nam, phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và doanh nghiệp/ hiệp hội nhằm cảnh báo và tránh tối đa các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ sáu, đầu tư ngân sách vào việc đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đồng thời phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực: từ các nhà hoạch định chính sách, đội ngũ công chức, doanh nhân và người lao động nói chung, tăng cường nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nhân về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Thứ bảy, Việt Nam cần tích cực hơn nữa trong nghiên cứu, đầu tư nhân lực vào việc thực hiện một cách có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của mình trong tổ chức WTO, trước mắt cần tham gia tích cực vào Vòng đàm phán Doha để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong tương lai ở các lĩnh vực nông nghiệp, phi nông nghiệp, trợ cấp... ./.
(Thu Thủy - Tạp chí kinh tế và dự báo)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com