Sức chứa hợp lý là một trong những vấn đề trọng tâm nghiên cứu phát triển bền vững của vùng. Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu nước ngoài về sức chứa. Tuy nhiên, ở nước ta, chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này trong quá trình phát triển kinh tế một cách trọn vẹn từ lý luận cho đến ứng dụng vào thực tiễn.
Theo những kết quả nghiên cứu ban đầu về vấn đề này và cụ thể ở tỉnh Đồng Nai do nhóm tác giả nghiên cứu theo sự đặt hàng của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Nai đã đạt được một số kết quả nhất định. Bài báo này xin giới thiệu một số nội dung về xác định sức chứa hợp lý trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai.
Khu Công nghiệp Nhơn Trạch, Đồng Nai
Về sức chứa hợp lý
Sức chứa hợp lý được hiểu là giới hạn cho phép để phát triển kinh tế-xã hội cả về mặt lượng và chất trên một lãnh thổ nhất định và trong một thời gian nhất định nhằm mục đích phát triển hài hoà, bền vững, đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao. Phụ thuộc vào các điều kiện phát triển theo những thời kỳ khác nhau, thì sự tăng/giảm quy mô sản xuất, dân số và các hoạt động kinh tế, xã hội khác sẽ làm ảnh hướng tốt/xấu đến môi trường và các vấn đề kinh tế-xã hội, hiệu quả kinh tế. Giới hạn của sự phát triển kinh tế-xã hội tỉnh thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa học-công nghệ và trình độ giao lưu, hợp tác kinh tế của từng thời kỳ.
Như vậy khi nói đến sức chứa, phải đề cập đến khả năng “tối đa” phát triển kinh tế-xã hội, mục tiêu và mục đích của phát triển; đến nguồn lực và điều kiện sẵn có của tỉnh, nói đến thời gian và trình độ phát triển đã và sẽ đạt được của tỉnh.
Sức chứa có thể phân ra thành nhiều loại, phụ thuộc vào tiêu chuẩn. Theo vùng, sức chứa chia thành sức chứa khu vực thành thị, sức chứa khu vực nông thôn, sức chứa của tỉnh, sức chứa của vùng.v.v. Sức chứa của một vùng không chỉ xét trên diện tích bề mặt mà bao gồm cả không gian, dưới lòng đất, ngoài biển và đáy biển; Theo thời gian, sức chứa được chia thành sức chứa hiện tại và sức chứa tương lai. Không có sức chứa vĩnh viễn, sức chứa mỗi thời kỳ ứng với trình độ khoa học-công nghệ của quốc gia và mỗi vùng, tỉnh; Theo ngành kinh tế, sức chứa được chia thành sức chứa của khu vực công nghiệp, khu vực nông nghiệp; Theo tính chất, sự hợp lý của sức chứa được xác định rõ là trong điều kiện khoa học-công nghệ chưa thay đổi mà vượt quá “giới hạn cho phép” sẽ có trở ngại. Khi nói đến “sức chứa” là nói đến “giới hạn” có thể đạt được trong điều kiện phát triển “bền vững”, nếu vượt quá nó sẽ khó khăn, vấp váp. Để xác định tính “hợp lý” trong sức chứa kinh tế tỉnh, cần chú ý đến hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nếu phát triển kinh tế trong tỉnh đạt đến giới hạn, thậm chí phát triển “tối đa”, song không “bền vững” thì không phải là sức chứa hợp lý. Như vậy “sức chứa hợp lý” của vùng không lấy “tối đa” làm mục tiêu.
Thứ hai, nếu phát triển vì “bền vững” nhưng không phát triển đến giới hạn, lãnh thổ của tỉnh còn “trống vắng”, không gian tỉnh bị bỏ “lãng phí” thì cũng không phải là sức chứa hợp lý.
Sức chứa kinh tế của tỉnh là một tiêu chí, nội dung để xem xét và luận chứng tổ chức lãnh thổ kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Công cụ và phương pháp xác định sức chứa hợp lý
Một trong các công cụ phân tích sức chứa là hệ thống chỉ tiêu phân tích. Để đo sức chứa dân số, người ta sử dụng chỉ tiêu sức chịu tải dân số của đất đai và sức chịu tải dân số thông qua mật độ dân số. Sức chứa về các điều kiện sống được phân tích đánh giá bằng khả năng giới hạn về cấp nước, về đất ở và khả năng đáp ứng về lương thực thực phẩm,... Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, vấn đề lương thực, thực phẩm không phải là vấn đề quyết định sức chứa, bằng giao lưu hợp tác có thể giải quyết nhu cầu lương thực. Nếu các yếu tố khác không đổi, giới hạn khả năng cấp nước và khả năng đáp ứng về đất ở có ý nghĩa quyết định đến khả năng sức chứa dân số của một vùng, một tỉnh.
Giới hạn phát triển công nghiệp được tập trung vào: Giới hạn về năng lượng, về nguyên vật liệu, nguồn nhân lực, nguồn nước, đất cho công nghiệp. Sức chứa về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp cho từng loại (như lúa, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc...; phát triển rừng; phát triển thuỷ sản) đều có thể tính toán được cho mỗi vùng trên cơ sở tiềm năng đất.
Sức chưa hợp lý để phát triển kinh tế tỉnh là tổng hoà các chỉ tiêu nêu trên. Sau khi phân tích từng chỉ tiêu, có thể xác định sức chứa hợp lý trên cơ sở tìm thấy điểm chung của các chỉ tiêu. Tuy nhiên các giới hạn sức chứa được xét trên 3 nội dung chính, đó là: (1)- Dân số cho phát triển vùng trong thời kỳ; (2)- Mức phát triển tối đa và tối thiểu (khoảng xác định) một số ngành quan trọng như công nghiệp, khu công nghiệp, nông nghiệp và điều kiện đảm bảo về kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; (3)- Sức chứa trên cơ sở giao lưu, hợp tác liên vùng.
Sức chứa lãnh thổ của tỉnh Đồng Nai và những vấn đề đặt ra
Nghị quyết số 78/2006/NQ-HĐND về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai thời kỳ 2006-2010, mục tiêu phát triển của Tỉnh trong thời kỳ này là phát triển nhanh và bền vững các lĩnh vực kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường và đảm bảo vững chắc quốc phòng an ninh; xây dựng Đồng Nai trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ lớn và hiện đại của khu vực phía Nam, góp phần quan trọng trong việc thực hiện vai trò động lực và giao thương với quốc tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đối với cả nước; phấn đấu đến năm 2010 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, năm 2015 trở thành tỉnh cơ bản công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vào năm 2020 thành tỉnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đến nay sức chứa về dân số của Đồng Nai không những chứa nổi số dân đang có mà còn dôi dư sức chứa, điều đó chứng tỏ kinh tế phát triển khá, có dự trữ, đây là một thành tựu quan trọng. Theo tính toán, tổng số người có thể nuôi được từ thu nhập của lao động trong tỉnh Đồng Nai năm 2007 khoảng 2,34- 2,48 triệu người, trong khi đó dân số của Tỉnh khoảng gần 2,3 triệu người. Như vậy, sức chứa tính theo năng lực sản xuất trong năm 2007 của Đồng Nai vượt mức chứa dân số hiện có của Tỉnh.
Sức chịu tải lãnh thổ trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội được xem xét trên hai vấn đề cơ bản là khả khả năng đất và cấp nước của Tỉnh. Sức chứa dân số đô thị năm 2007 là 64,9 vạn người, so với 73,6 vạn người hiện có, như vậy có khoảng 8,7 vạn người vượt ra khỏi sức chứa. Đất ở nông thôn tính đến năm 2007 chưa đáp ứng nhu cầu về ở theo tiêu chuẩn đặt ra. Hiện nay đất thực ở nông thôn Đồng Nai là 69m2/người thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn 100 m2/người.
Theo tính toán, tổng lượng nước có thể cung cấp cho hoạt động công nghiệp và dịch vụ, sinh hoạt ở đô thị và nông thôn năm 2007 ước đạt 245,3m3/ngày đêm là đủ, song khả năng sản xuất nước sạch của Tỉnh chỉ đáp ứng 67% lượng nước nhu cầu và chỉ cấp được khoảng 90% dân số của Tỉnh, trong đó 97% dân số thành thị (số dân là 713,8 nghìn người so với 735,9 nghìn người) và khoảng 87% dân số nông thôn (số dân là 1.343 nghìn người so với 1549,5 nghìn người). Thực ra dân số trong tỉnh vẫn sống với lượng nước đã có với mức thấp hơn tiêu chuẩn, lượng nước bình quân cho một dân thành thị chỉ đạt 80 lít/ngày đêm (so với tiêu chuẩn là 100 lít/ngày đêm) và nông thôn chỉ đạt 27 lít/ngày đêm (so với tiêu chuẩn 50 lít/ngày đêm).
Sức chứa hiện nay của Đồng Nai tuy khá lớn, song thực chất vẫn chưa tận dụng hết được khả năng và tiềm lực của tỉnh, trong đó sức chứa công nghiệp là một ví dụ điển hình. Sức chứa công nghiệp xét trên một số khía cạnh như giới hạn về nước, đất, vốn đầu tư, v.v. Về nước, ở Đồng Nai có nguồn nước dồi dào và các công trình cấp nước cũng đáp ứng đầy đủ cho phát triển công nghiêp và cả dịch vụ kèm theo. Về đất, cần xem xét yếu tố này trên cả hai khía cạnh số lượng đất cần thiết để bố trí công nghiệp và chất lượng được đo bằng hiệu quả sử dụng một đơn vị diện tích đất trong các khu công nghiệp. Sức chứa xét trên diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê trong các khu công nghiệp hiện nay của tỉnh còn khá lớn. Diện tích đất khu công nghiệp Đồng Nai có tỷ lệ lấp đầy cao trong cả nước, song khả năng lấp đầy cũng mới chỉ khoảng 70%, vẫn còn tới 3.211,8 ha chưa tận dụng được. Đất các cụm công nghiệp quy hoạch lớn (1.844 ha), song chưa đưa vào hoạt động được nhiều.
Về chất lượng sử dụng đất khu công nghiệp có thể đánh giá trên các mặt vốn đầu tư, giá trị quốc gia và xuất khẩu. Tính đến năm 2007, vốn đầu tư cho sản xuất mới thực hiện được 50,7% vốn đăng ký, đây là mức thực hiện thấp, song điều đáng quan tâm ở đây là đầu tư tính trên 1ha rất thấp, chỉ đạt 1,65 triệu USD/ha đất trong khu công nghiệp. Giá trị quốc gia (bao gồm sử dụng nguyên liệu và sản phẩm bổ trợ trong nội tỉnh…) trong sản xuất ở các khu công nghiệp rất thấp. Phần lớn là nhập khẩu để sản xuất, phần giá trị gia tăng chủ yếu là công lao động. Xuất khẩu tính trên 1 ha còn thấp, mới đạt khoảng 781.000 USD/ ha, chưa đạt được mức phổ biến 1 triệu USD/ha như ở nhiều khu công nghiệp khác ở một số địa phương hoạt động có hiệu quả .
Dự báo sức chứa hợp lý của tỉnh Đồng Nai
(1) Từ nay đến 2020, sức chứa dân số trên lãnh thổ Đồng Nai có 2 khả năng xẩy ra:
Khả năng 1: Với tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 7,5-8% từ nay đến 2020, mức thu cho 1 người vượt mức cần chi cho đời sống đến năm 2010 là 1,4 lần, năm 2015 là 1,5 lần và năm 2020 là 1,4 lần. Như vậy, với mức tăng năng suất lao động từ nay đến 2020 giữ như cũ, khả năng nuôi sống của Đồng Nai có thể nhiều hơn số dân số, song mức sống chưa cao và có xu hướng giảm đi đến 2020.
Khả năng 2: Cải tiến công nghệ và tăng năng suất lao động, với mức tăng bình quân như quy hoạch tỉnh đã đề ra là: Với tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 11-12% từ nay đến 2020, thì mức thu cho 1 người vượt mức cần chi cho đời sống đến năm 2010 là 1,58 lần, năm 2015 là 2,48 lần và năm 2020 là 3,1 lần. Như vậy, với mức tăng năng suất lao động mới ở mức 12%/năm, khả năng nuôi sống của Đồng Nai có thể gấp nhiều lần số dân có được từ nay đến 2020.
Với sức sản xuất như khả năng 2, sức chứa dân số là lớn, song kết hợp với các điều kiện sức chứa về đất, nước, môi trường… , sức chứa dân số đến năm 2010 là 2,4-2,5 triệu người, năm 2015 là 2,6-2,7 triệu người và đến 2010 khoảng 2,8-2,9 triệu người.
Để hướng vào sức chứa nêu trên, từ nay đến 2020, cần tập trung vào các biện pháp: Cơ cấu lại nền kinh tế; Đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ; Tăng nhanh lực lượng lao động qua đào tạo bằng cách xã hội hoá đào tạo nghề; Tạo nhanh việc làm để tận dụng sức lao động phong phú có trong tỉnh.
(2) Qua phân tích sức chịu tải lãnh thổ xét trên yếu tố đất ở cho dân cư tỉnh Đồng Nai, có thể rút ra một số điểm sau:
- Đến nay đã bắt đầu nảy sinh căng thẳng về đất cho nhu cầu ở không những ở thành thị mà cả ở nông thôn. Điều kiện ở hiện có thấp hơn nhiều so với yêu cầu về tiêu chuẩn ở trong quy hoạch.
- Sự căng thẳng về đất ở diễn ra ở các vùng rất khác nhau, điều kiện đất ở vùng Phía Nam rất khó khăn do số dân quá tập trung, trong khi đó các vùng khác trong tỉnh còn thưa thớt và mức căng thẳng chưa xảy ra.
- Sự căng thẳng về đất ở diễn ra trong điều kiện tốc độ đô thị hoá của tỉnh thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đô thị hoá của vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) (32,2% so với ĐNB 58%). Như vây, trong tương lai khi đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, sẽ rất căng thẳng về đất ở cần phải giải quyết.
- Di dân lớn vào Đồng Nai là một trong những yếu tố tạo ra sự căng thẳng về ở, mất đất canh tác và tác động đến môi trường.
(3) Nếu nhìn trên quy mô toàn tỉnh thì biểu hiện của sức chứa tuy đã có nhiều bất cập, nhưng “chưa thật nghiêm trọng”, song thực chất sức chứa đã bắt đầu có 2 hiện tượng trái ngươc, đó là “nóng” ở vùng Phía Nam và còn “thưa thớt” ở hai vùng Phía Đông và Phía Tây của tỉnh Đồng Nai.
(4) Những bất cập về chất lượng của sức sản xuất trong sức chứa của Đồng Nai thể hiện rất rõ trong chất lượng phát triển của nông nghiệp và công nghiệp: về nông nghiệp, khả năng sức chứa của nông nghiệp xét trên giác độ khả năng nuôi sống của sản xuất nông nghiệp đối với dân cư nông nghiệp là thấp; về công nghiệp bất cập lớn nhất về sức chứa lại là mức “sinh lời” trên 1 ha đất thấp.
Tài liệu tham khảo:
1. Christopher W. McKindsey, Helmut Thetmemeyer, Thomas Landry, William Silvert (2006), Review of recent carraing capacity models for bivalve culture and recomendations for reserch and managment. Aquaculture, 261(2006): 451-462. 2. David A. Munro, Bền vững là một điều khoa trương hay là một thực tế?, A sustainable world, Sacramento and Claremont, 1995. 3. Perrin S. Meyer, Jesse H. Ausubel (1999), Carraing capacity: A model with logistically varing limits. Technological forecasting and social change, 61(3): 209-214.
(PGS. TS. Nguyễn Văn Phú - Tạp chí kinh tế và dự báo)
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Qua các tư liệu có được có thể thấy lúc ấy Liên Xô kiên định ủng hộ ta nhưng chú trọng nhiều hơn tới các vấn đề châu Âu, có phần thụ động và “khoán” các vấn đề Viễn Đông cho Trung Quốc.
Nhu cầu đầu tư trong lĩnh vực giao thông để theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế đang khiến cho bài toán vốn càng trở nên khó khăn hơn trong những năm tới.
Cứ mỗi lần cá cược bị bắt, người ta thường đọc thấy thông tin rằng các bị can đã cá cược hết bao nhiêu tiền, với dân cá cược, họ tin rằng đó là do các ngân hàng ở Việt Nam cung cấp thông tin cá nhân. Thế nên, dòng chảy của đồng tiền đang được chính những người chơi “nắn” lại.
Là một trong những thành phố năng động, phát triển nhất của cả nước, sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh có đóng góp không nhỏ từ ngành công nghiệp. Nhằm tạo sự chuyển đổi và phát triển cơ bản cả về lượng lẫn về chất cho ngành này, Thành phố đã triển khai thực hiện chương trình Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Sau hơn 1 năm, với những kết quả khả quan đã đạt được, bộ mặt công nghiệp của Thành phố đã có những sự chuyển biến tích cực.
Lạm phát là vấn đền nan giải trong đời sống kinh tế- xã hội và điều hành kinh tế vĩ mô. Lạm phát là hiện tượng tăng giá cả hàng loạt của hầu hết các sản phẩm hàng hóa, làm cho chất lượng cuộc sống của người lao động, người tiêu dùng giảm xuống. Cho dù thu nhập danh nghĩa có tăng lên chút ít nhưng thường không đủ bù đắp cho mức tăng giá cả hàng hóa. Còn đối với người sản xuất, người bán phải hạch toán chi li từng khoản chi phí cũng phải lo lắng trước cơn lốc xoáy của hiện tượng lạm phát khi mà giá trị của đồng tiền ngày một suy giảm. Và việc lo bảo toàn giá trị đồng vốn của doanh nghiệp cũng là cả một vấn đề chứ đừng nói đến lợi nhuận cao khi mà giá cả tăng thì hàng hóa thường khó bán hơn.
Ngân sách Phát triển xã (NSPTX) là một hợp phần của dự án “Giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc”; đầu tư bằng vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB). Hợp phần này thể hiện cách tiếp cận mới chính sách của Nhà nước Việt Nam, nhằm phân cấp và trao quyền cho người nghèo. Các xã tham gia dự án toàn quyền sử dụng khoản tiền này để đầu tư vào các dự án quy mô nhỏ tại thôn, bản.
Có thể nói, giai đoạn 1986-1990 hệ thống Ngân hàng nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung vẫn ở giai đoạn cao trào của cuộc khủng hoảng toàn diện kinh tế - chính trị - xã hội kéo dài từ trước Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI (1986). Đây là giai đoạn hết sức khó khăn nhưng cũng là thời điểm đánh dấu một trang sử khắc nghiệt với nhiều bài học quý giá cần được nhìn lại và suy ngẫm cho hôm nay.
Tình hình kinh tế quý I năm 2008 nước ta có những diễn biến bất lợi ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và đời sống của các tầng lớp nhân dân, đe doạ đến ổn định vĩ mô như: Lạm phát cao, giá tiêu dùng tháng 3 đã tăng 9,19%; nhập siêu lên tới hơn 7 tỷ USD, tăng 62,5% và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu… Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã xác định kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng.
Trung tuần tháng 8, UBND TP Hà Nội đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thực hiện các dự án sân gôn trên địa bàn thành phố, trong đó đề xuất Chính phủ cho phép dừng đầu tư 10/19 dự án với mục tiêu giữ đất cho nông nghiệp hoặc sử dụng vào mục đích khác có hiệu quả hơn.
Theo đề xuất của UBND TP Hà Nội, 10 dự án sân gôn (hoặc có hạng mục sân gôn) chiếm đất nông nghiệp, nằm ở vùng đông dân cư, khó giải quyết việc làm khi thu hồi đất hoặc chưa phù hợp về chính trị, văn hóa... sẽ tạm dừng để chuyển mục đích đầu tư. Quan điểm của TP là đầu tư xây dựng sân gôn phải căn cứ trên định hướng quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội và phù hợp với chiến lược bảo đảm an ninh lương thực; hài hòa lợi ích Nhà nước, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất, góp phần đạt mục tiêu phát triển ổn định bền vững.
Phát biểu khai mạc chương trình, anh Dương Xuân Hùng – Ủy viên BTV Trung ương Đoàn, Bí thư tỉnh đoàn Thái Nguyên cho biết: Đây là hoạt động thiết thực để một lần nữa hỗ trợ và khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong giới trẻ, tạo cơ hội cho thanh niên, sinh viên phát huy tinh thần sáng tạo và ý chí tự lập, áp dụng những kiến thức đã học, tiếp cận thực tiễn, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học, lập các dự án có tính khả thi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp sinh viên và các bạn trẻ có cơ hội hiện thực hóa những hoài bão và ước mơ, dũng cảm vượt qua khó khăn, vươn lên làm chủ cuộc sống, làm giàu chính đáng và đóng góp xây dựng xã hội từ chính bàn tay và khối óc của thanh niên Việt Nam hôm nay.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.