Ngày 15-1-2009, Chính phủ thông qua kế hoạch sử dụng gói kích cầu đầu tiên trị giá 17 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho khoản vay ngân hàng bằng đồng Việt Nam (VND) của doanh nghiệp, hộ sản xuất.
Những kết quả bước đầu của việc triển khai gói kích cầu cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đã đi đúng hướng. Tình hình kinh tế - xã hội nước ta tám tháng đầu năm đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Nhiều doanh nghiệp (DN) sau khi được tiếp vốn từ chính sách kích cầu của Chính phủ đã phục hồi sản xuất và đạt kết quả kinh doanh tốt hơn những tháng đầu năm.
Chỉ còn chưa đầy ba tháng nữa, gói kích cầu hỗ trợ lãi suất ngắn hạn sẽ kết thúc. Chính phủ có tiếp tục gói này trong năm 2010 hay không còn là vấn đề đang thảo luận. Có nhiều ý kiến cho rằng, cần tiếp tục áp dụng các biện pháp kích thích tăng trưởng kinh tế, nhưng phải làm khác so với lần thứ nhất. Theo nhiều DN, mức tăng trưởng của DN những tháng gần đây vẫn chưa thật sự ổn định và bền vững, do đó, kiến nghị Chính phủ nên nới thêm thời hạn gói kích cầu, ưu tiên cho một số ngành nghề chủ lực vay vốn hỗ trợ. Sự hỗ trợ về cơ chế và vốn được xem là cần thiết đối với DN trong giai đoạn suy thoái và hậu suy thoái. Thế nhưng, liệu nó có tạo nên sức ỳ từ các DN hay không cũng là vấn đề cần được tính tới. Hơn nữa, do tính hai mặt cũng như độ trễ của chính sách tiền tệ, chúng ta cần tiên liệu những tác động ngoài mong muốn một khi gói kích cầu mới đi vào hoạt động.
Tính đến thời điểm này, gói kích cầu bù lãi suất cho các khoản vay ngắn hạn đã thực hiện được hơn hai phần ba thời gian. Thời hạn của gói kích cầu lần thứ nhất đang gần kết thúc, nhưng cho đến giờ chưa có sự nghiên cứu hay khảo sát nào lượng hóa được những tác động của gói kích cầu lần thứ nhất một cách đầy đủ. Bởi lẽ, lý do quan trọng là việc thu thập thông tin và dữ liệu đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Theo chúng tôi, ngay bây giờ, Chính phủ cần giao cho một tổ chức có đủ năng lực thực hiện đề án nghiên cứu tác động của việc triển khai gói kích cầu hỗ trợ lãi suất ngắn hạn. Ðể chúng ta có cơ sở đánh giá hiệu quả của nó, từ đó quyết định có cần tiếp tục gói kích cầu hỗ trợ lãi suất ngắn hạn cho DN nữa không. Có như vậy mới kiểm soát được dòng vốn hiệu quả, để không rơi vào tình trạng vốn kích cầu chảy vào các thị trường bất động sản và chứng khoán hoặc khu vực trực tiếp sản xuất thì ít được hưởng lợi, trong khi khu vực trung gian lại hưởng lợi nhiều.
Vấn đề đặt ra là phải xem xét diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và xu hướng phục hồi của các nền kinh tế lớn. Việc dự báo chính xác vấn đề này sẽ giúp xác định được thời điểm điều chỉnh, thay đổi chính sách cùng với các giải pháp kích cầu kinh tế của chúng ta.
Nền kinh tế nước ta đang có xu hướng hồi phục, nhưng đi kèm là những cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn. Giai đoạn hậu suy thoái đang đặt ra những yêu cầu mới đối với chính sách tiền tệ. Giải pháp nào để vừa kích thích phát triển kinh tế, vừa kiềm chế lạm phát; có cần thêm một gói kích cầu nữa hay không là những vấn đề được đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hậu suy giảm.
Cơ chế hỗ trợ lãi suất được Chính phủ quy định thực hiện trong năm 2009 và công bố công khai nên DN không bị sốc về mặt thời điểm. Nhưng với mức hỗ trợ lãi suất 4%/năm là khá lớn, làm giảm chi phí tiền vay hơn 30%. Xét về mặt tâm lý và hạch toán giá thành sản phẩm, theo chúng tôi cần có thêm bước đi giảm dần về đối tượng, lãi suất để ổn định tâm lý. Các biện pháp kích cầu thời gian qua chỉ là liều thuốc hỗ trợ DN vượt qua khó khăn, duy trì phát triển sản xuất. Nhà nước không thể hỗ trợ DN mãi được, vì còn những yêu cầu cạnh tranh trong hội nhập, DN phải tự nâng cao sức cạnh tranh.
Kinh tế tám tháng đầu năm 2009 dần lấy lại được đà phục hồi. Trong những tháng cuối năm, dù còn khó khăn, nhưng xu hướng tăng trưởng kinh tế có chiều hướng thuận lợi. Lạm phát cũng có xu hướng tăng do tác động của chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng và tăng giá. Sang năm 2010, đà tăng trưởng kinh tế được duy trì, nhưng lạm phát có sức ép tăng. Làm sao để bảo đảm động lực tăng trưởng mà vẫn tránh được nguy cơ lạm phát cho nền kinh tế chính là điểm nhạy cảm và cái khó cho chính sách kích cầu trong giai đoạn hậu suy thoái. Vì thế, trong giai đoạn mới, khi kinh tế ổn định và phát triển, nếu chính sách kích cầu không tiếp cận vấn đề mới một cách nhanh chóng thì không những không thúc đẩy phát triển, mà những thành quả đạt được cũng sẽ bị ảnh hưởng. Do vậy, cần có phản ứng nhanh nhạy với tình hình mới và ngay từ bây giờ phải xây dựng các chính sách cho giai đoạn hậu khủng hoảng. Việc thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nếu sử dụng dài hạn thì không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn làm tăng lạm phát.
Do vậy, việc gói kích cầu rút dần dần và có lộ trình để DN có thể thích nghi dần thì đó là biện pháp rất tích cực. Bởi lẽ, nó vừa giúp cho chủ trương chống suy giảm của Nhà nước được bền vững, vừa giúp cho DN tránh được những tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra. Theo chúng tôi, nên thực hiện gói hỗ trợ này có thể ít hơn, lãi suất thấp hơn và đối tượng được hỗ trợ hẹp hơn. Ðồng thời, tập trung nguồn vốn vào những DN làm ăn hiệu quả, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu chứ không nên dàn trải.
Chúng tôi đồng tình về việc thực hiện thêm biện pháp để hỗ trợ DN và nền kinh tế lấy đà hồi phục, sau khi gói hỗ trợ lãi suất kết thúc vào cuối năm nay. Khi kết thúc gói hỗ trợ 4%, có thể tiếp tục thực hiện gói hỗ trợ với quy mô nhỏ hơn, thời gian ngắn hơn (có thể khoảng 4 - 6 tháng), đối tượng hỗ trợ hẹp hơn, với mức hỗ trợ thấp, chẳng hạn 1-2%.
Bên cạnh đó, để bảo đảm hỗ trợ DN phát triển trong giai đoạn hậu suy thoái, Nhà nước cần có những giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát để ổn định mức lãi suất thấp. Mức lãi suất cơ bản 7% đã được giữ ổn định trong hơn sáu tháng qua. Ðây là mức lãi suất tích cực đối với ổn định thị trường, kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho DN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... yếu tố rất cần trong giai đoạn hậu suy thoái. Ðây là mức lãi suất phù hợp trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
"Tính toán bài toán tiền lương giống như đi thăng bằng trên dây vậy. Quả thật là vô cùng khó khăn", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân nói với VnEconomy như vậy khi trao đổi xung quanh vấn đề lương tối thiểu và việc thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia.
Vụ cháy tại cây xăng ở Hà Nội mới đây cùng với việc phát hiện rút ruột xăng xe bồn tại Quảng Ninh đã làm nóng lên câu chuyện quản lý kinh doanh xăng dầu, tại cuộc họp của do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/6.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước chuẩn bị kiểm tra việc thực hiện các đòn bẩy tài chính tại các công ty chứng khoán trong thời gian tới. Đó là thông tin do ông Nguyễn Sơn, Trưởng ban phát triển thị trường, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cho TBKTSG Online biết chiều ngày 12-10.
Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 đã tăng 0,37% so với tháng 9/2009, tăng 2,99 % so với tháng 10/2008 và tăng 4,49% so với tháng 12/2008.
Đại diện nhiều cơ quan quản lý đã đề xuất nhà nước nên có chính sách chặt chẽ trong việc chi tiêu công, bằng việc ưu tiên mua sắm hàng Việt Nam nhằm mục đích hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị vào tháng 7 năm nay.
Mới đây, Khu kinh tế muối Quán Thẻ tại tỉnh Ninh Thuận đã khai thác mẻ muối đầu tiên, mở đầu cho phát triển ngành công nghiệp muối và hoá chất tại khu vực Nam Trung Bộ, nơi được đánh giá có điều kiện thuận lợi nhất Việt Nam.
Tiếp theo cuộc giám sát về tình hình các tập đoàn, trong tuần tới, hiệu quả gói kích cầu của Chính phủ sẽ được tiến hành giám sát tại các doanh nghiệp và ngân hàng.
Để kích cầu mạnh hơn việc sử dụng máy móc cơ khí nông nghiệp theo Quyết định số 497/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, cần có chính sách đồng bộ ở tất cả các địa phương.
Ông Đặng Hoàng Huy, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Bê tông và Xây dựng Vinaconex Xuân Mai cho biết, Công ty vừa đề xuất với Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng tuyến tàu trên cao Hà Đông - Xuân Mai.
Bộ Xây dựng vừa phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch xây dựng dọc tuyến cao tốc Hà Nội - Vinh (thuộc tuyến cao tốc QL1 mới) đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.