Jeanne Holden
Một cơ quan Hoa Kỳ thỏa thuận hợp tác với một tổ chức nghiên cứu của Brazil để nghiên cứu các loại cây thuốc ở đất nước này để sáng chế ra thuốc chống ung thư.
Một nhóm bộ tộc người Mỹ bản địa đã tạo ra một cơ sở dữ liệu kỹ thuật số để ghi lại tất cả tri thức văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán và văn hóa nghệ thuật của cộng đồng họ.
Một tập đoàn của Hoa Kỳ, tập đoàn tìm kiếm các vi sinh vật ở Công viên Quốc gia Đá vàng, đang bước đầu ký kết thỏa thuận phát triển và nghiên cứu với Chính phủ Hoa Kỳ. Trong thỏa thuận này, hai bên sẽ cùng nhau chia sẻ những lợi ích thương mại của công trình nghiên cứu đó.
Mặc dầu các sự kiện này có vẻ không liên quan đến nhau nhưng chúng lại đều có điểm chung: tất cả đều là những cơ chế nhằm vào việc bảo hộ các nguồn gien, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian. Ba thành tố này thường bện chặt vào nhau trong đời sống hàng ngày ở các cộng đồng. Ví dụ, một bài thuốc chữa trị vết thương truyền thống có thể liên quan đến một cây thuốc được sử dụng theo một công thức lưu truyền qua nhiều thế hệ và dần dần trở thành một phần của nghi lễ văn hóa.
Theo bà Linda Lourie, luật sư tại Vụ Quan hệ Quốc tế, Cơ quan cấp nhãn hiệu và bằng phát minh sáng chế Hoa Kỳ (USPTO) thì người Mỹ tôn trọng và thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo vệ các nguồn gien, tri thức truyền thống và các hình thức thể hiện văn hóa dân gian bằng việc quy định việc chia sẻ quyền lợi cân bằng, xóa bỏ các bằng sáng chế được cấp nhầm, hạn chế sự mai một của tri thức truyền thống, và bảo tồn văn hóa dân gian.
Là một nước gồm nhiều người dân từ khắp các châu lục, đồng thời với hơn 560 bộ lạc da đỏ, chính quyền Mỹ đã phải xử lý rất nhiều mối lo liên quan đến những vấn đề thường rất phức tạp này. Bà Lourie nhấn mạnh rằng: “Chúng tôi xử lý những vấn đề này bằng các biện pháp của quốc gia”. Có một số giải pháp dùng tới Luật Bảo hộ Sở hữu Trí tuệ hiện thời của Hoa Kỳ, trong khi những giải pháp khác thì không. Ví dụ, các doanh nghiệp của người da đỏ áp dụng các luật bảo hộ sở hữu trí tuệ đã được hình thành, trong khi các hình thức thể hiện văn hóa dân gian của người da đỏ lại được bảo hộ bằng các luật, chương trình hay thậm chí là bảo tàng khác.
Trên trường quốc tế, Hoa Kỳ là nước đứng đầu trong việc phát triển các thỏa thuận cùng có lợi với các nước khác liên quan đến nguồn gien của những nước này. Bà Lourie nói rằng: “Chúng tôi kiên quyết hướng thế giới tới việc đàm phán các loại thỏa thuận này, và chúng tôi chắc chắn sẽ khuyến khích các nước khác làm như vậy”.
Bà Lourie cũng cho rằng, Hoa Kỳ rất nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm của mình với các nước khác trên các diễn đàn quốc tế. Nhưng bà cũng cảnh báo rằng: “Mỗi nước có các vấn đề cần phải giải quyết theo các cách riêng. Do đó các nước không nên áp dụng nguyên si cách giải quyết của Hoa Kỳ trong việc giải quyết các vấn đề của nước mình”.
VẬY NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÓ LÀ GÌ?
Năm 1993, Công ước về Đa dạng Sinh học (CBD) đã có hiệu lực. Công ước này thể hiện sự cam kết giữa các quốc gia nhằm giữ gìn sự đa dạng sinh học, sử dụng các nguồn lực sinh học một cách lâu bền và chia sẻ và cân bằng lợi ích trong việc khai thác các quỹ gien. Đề cập đến vấn đề bảo hộ tri thức truyền thống, văn hóa dân gian và các nguồn gien, Điều 8 (j) của Công ước này kêu gọi các nước liên kết để “tôn trọng, bảo tồn và duy trì tri thức, sáng chế và phong tục, tập quán của các cộng đồng trong nước và bản xứ” và để thúc đẩy việc ứng dụng hơn nữa các tri thức truyền thống, với sự cho phép của các cộng đồng nắm giữ tri thức.
Kể từ năm 1993, cộng đồng quốc tế đã và đang quyết tâm để hiểu và thực hiện tốt hơn điều 8 (j) cùng với các điều khoản khác của Công ước trên, trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). Trong những cuộc họp này, một số nước đang phát triển đã ủng hộ việc tạo ra các công cụ pháp lý mới để bảo vệ các tri thức này trong WIPO. Các nước thành viên của WIPO cũng ủng hộ bằng việc thiết lập một ủy ban liên chính phủ được coi như là một diễn đàn quốc tế để thảo luận mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ và các nguồn gien, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian.
Nhưng ba thuật ngữ này có nghĩa là gì? Cho tới nay các khái niệm này vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. “Các nguồn gien” được định nghĩa trong điều 2 của Công ước Đa dạng sinh học là “phần tử gien mang lại giá trị thực tế hoặc tiềm năng”. Phần tử gien được coi là bất kỳ loại vật chất nào của cây trồng, động vật, vi khuẩn hoặc từ bất kỳ loại vật thể nào chứa đựng chức năng di truyền.
Theo Cục Quốc tế của WIPO, “tri thức truyền thống” được hiểu là các hệ thống tri thức, các sản phẩm sáng tạo, sáng kiến và các hình thức thể hiện văn hóa dân gian được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường thuộc về hoặc gắn liền với một nhóm người cụ thể hoặc một vùng lãnh thổ cụ thể nơi nhóm người đó sinh sống. Theo định nghĩa này, một vài dạng của tri thức truyền thống đã tồn tại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, những tri thức này luôn được phát triển thường xuyên để thích nghi với môi trường luôn thay đổi. Tri thức truyền thống có thể là sự hiểu biết các yếu tố tự nhiên như các lớp khoáng chất, vị trí của cá hồi, chức năng chữa bệnh của các cây trồng trong nước, tập quán quản lý đất đai hoặc kỹ thuật nông nghiệp.
Thuật ngữ “các hình thức thể hiện văn hóa dân gian” được định nghĩa bởi WIPO tùy theo các mục đích thảo luận. Theo tổ chức này, thuật ngữ “các hình thức thể hiện văn hóa dân gian” đề cập đến các sản phẩm chứa yếu tố đặc trưng của “di sản nghệ thuật truyền thống” được phát triển và duy trì bởi một cộng đồng hoặc bởi các cá nhân phản ảnh sự biểu thị nghệ thuật truyền thống của cộng đồng đó. Các hình thức thể hiện văn hóa dân gian này có thể dưới dạng ngôn ngữ (như truyện dân gian); âm nhạc (như các bài hát dân gian, âm nhạc truyền thống, kịch hoặc tuồng); hoặc các dạng hữu hình khác (như các tác phẩm hội hoạ, điêu khắc, nghệ thuật tạo hình, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ mây, may vá, vải vóc, thảm, trang phục, dụng cụ âm nhạc và các loại hình kiến trúc khác), và các tài sản văn hóa vật thể khác.
Cộng đồng nắm giữ tri thức Hoa Kỳ và một số nước khác lo ngại rằng: những tri thức này sẽ bị mất đi; thiếu sự tôn trọng các tri thức truyền thống; mai một dần các tri thức truyền thống, bao gồm việc sử dụng mà không chia sẻ các lợi ích hoặc chiếm đoạt, khai thác sử dụng trái phép; nảy sinh nhu cầu bảo tồn và thúc đẩy việc áp dụng các tri thức truyền thống. Các cộng đồng bản địa có rất nhiều mối quan tâm giống nhau liên quan đến các hình thức thể hiện văn hóa truyền thống của họ.
Những người nắm giữ nguồn gien trên toàn thế giới cũng tập trung phần lớn vào các vấn đề “bảo vệ”, “bảo tồn” và “công bằng”, mặc dù những từ này thậm chí đến nay vẫn không được định nghĩa đồng nhất.
Người ta kêu gọi là cần phải có các công cụ pháp lý hữu hiệu mang tầm quốc tế để bảo vệ các tri thức truyền thống này, nhưng rất nhiều câu hỏi đặt ra chưa được trả lời. Ai sẽ là người hưởng lợi của việc bảo hộ nguồn gien, tri thức truyền thống và văn hóa? Không nước nào, không một tổ chức liên chính phủ quốc tế hay cá nhân nào có thể xác định được người có thể hưởng lợi từ những biện pháp bảo hộ này. Cũng vậy, không ai có thể xác định được quy mô của những kiểu bảo hộ như vậy, cái gì sẽ tạo nên việc “sử dụng hợp lý” hoặc các diễn đạt hạn chế khác, hay những cơ chế hiệu lực nào sẽ được áp dụng. Hoặc làm thế nào để chuyển quyền sử dụng các nguồn gien, tri thức truyền thống, hoặc văn hóa từ nước cũ đến nước mới? Như vậy thì sự pha trộn về truyền thống giữa các nước sẽ được bảo vệ như thế nào? Thế còn các truyền thống hoặc tri thức được chuyển giao giữa các biên giới hoặc lục địa hoặc trở thành các tập quán toàn cầu?
Một số nước muốn ngăn chặn nước khác sử dụng các tri thức truyền thống của mình trong khi một số nước khác lại muốn thương mại hóa hoặc kiếm lợi từ điều đó. Làm sao chúng ta có một cơ chế có thể chứa đựng tất cả các nhu cầu này? Và các vấn đề thậm chí phức tạp hơn, khi chúng ta không có những thỏa thuận đối với việc bù trừ các tổn thất thực tế do việc áp dụng các biện pháp bảo hộ mới.
Theo Eric Wilson, một nhà phân tích chương trình quốc tế tại Bộ Nội vụ Hoa Kỳ thì ở Mỹ, các doanh nghiệp của các bộ lạc có thể làm lợi cho bản thân họ bằng Luật về quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. Ví dụ, bộ lạc Choctaw ở Missisippi tổ chức các cuộc hội thảo hàng năm cho chính quyền của bộ lạc và những người quản lý công nghiệp của bộ lạc về sở hữu trí tuệ. Ông Wilson giải thích rằng, nhóm này được sử dụng trong các doanh nghiệp sản xuất và nhóm muốn làm lợi cho mình từ các luật quyền sở hữu trí tuệ liên quan.
Ông Wilson nhấn mạnh rằng, các luật hiện thời về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không đủ xoa dịu những lo lắng của cộng đồng bản địa và chỉ riêng những luật này thì không thể hi vọng làm gì được. “Các giá trị bản xứ” như họ thỉnh thoảng gọi như thế, là khá rộng lớn và khác nhau giữa các cộng đồng, với một ít quyền lợi thuộc về toàn bộ một bộ lạc, một thị tộc (phe cánh) hoặc một cá nhân.
Để bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ, ông Wilson gợi ý rằng người ta cần phải có một số giải pháp xuất phát từ bản thân các cộng đồng bản xứ. Ông nói rằng điều này sẽ dễ dàng hơn cho các chính quyền dân tộc thừa nhận tính hợp pháp cho luật của họ.
TRI THỨC TRUYỀN THỐNG
Bà Linda Lourie cho rằng, để trả lời cho những cộng đồng nắm tri thức, người ta cần phải đảm bảo rằng các bằng sáng chế không được cấp trên các sản phẩm hoặc các quá trình đã được biết đến, bao gồm cả những cái mà được coi là tri thức truyền thống.
Một bằng sáng chế là việc một chính phủ cấp phép cho người phát minh ra nó quyền cấm người khác xuyên tạc, sử dụng hoặc bán sáng chế đó. Để được bảo hộ quyền sáng chế của mình ở khắp các nước, một sáng chế phải hoàn toàn mới, phải hữu ích và phải không được mở rộng không đáng kể từ cái đã được biết đến. Một số người sở hữu tri thức truyền thống lo sợ rằng những người khác sẽ có được các bằng sáng chế dựa trên những tri thức đã có từ lâu đời và hưởng lợi từ các tri thức này. Nhưng một người cố gắng phát minh dựa trên những tri thức truyền thống rất có thể không đáp ứng được 3 yêu cầu cần thiết này. Bà Lourie cho rằng: “Tri thức truyền thống là một cái đã được biết đến, vì thế nếu nó được sử dụng như tài liệu, nó không còn là mới nữa”.
Theo Luật về quyền sáng chế của Mỹ, (Điều số 35 Luật về quyền sáng chế Hoa Kỳ, Mục 102), nếu một sáng chế a) đã được biết đến hoặc được sử dụng bởi những người khác ở Hoa Kỳ, hoặc được cấp bằng sáng chế hoặc được sử dụng để xuất bản ở nước này hay một nước khác trước khi được nộp đơn xin cấp bằng sáng chế, hoặc b) được cấp bằng sáng chế hoặc được đăng trên tài liệu ở nước này hoặc nước ngoài hoặc được sử dụng rộng rãi hoặc được bán ở nước này, nhiều hơn một năm trước ngày nộp đơn xin cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ, thì nó không đủ điều kiện để được cấp bằng sáng chế.
Tuy nhiên, bà Lourie giải thích: “nếu những nhà giám định bằng sáng chế trong Virginia không biết về các tập quán truyền thống ở nước ngoài, họ không thể bảo hộ được”.
Thiếu thông tin về một phương thuốc chữa bệnh truyền thống đã dẫn tới một sự nhầm lẫn vào năm 1995 khi Hoa Kỳ cấp bằng sáng chế cho người Ấn Độ ở trường Đại học Trung tâm Y tế Mississippi do việc sử dụng củ nghệ để chữa lành vết thương. Củ nghệ đã được sử dụng lâu dài ở Ấn Độ để chữa lành vết thương, và điều này đã được lưu lại làm tư liệu cho các báo chí xuất bản tại Ấn Độ. Ủy ban về Nghiên cứu công nghiệp và khoa học của Ấn Độ đã yêu cầu kiểm tra lại bằng sáng chế và Phòng Nhãn hiệu và sáng chế của Hoa Kỳ đã hủy bỏ bằng sáng chế vì thiếu sự mới lạ. Khả năng bên thứ ba có quyền yêu cầu kiểm tra lại và cuối cùng là việc rút bỏ những lời phán quyết khi phát hiện ra lỗi chứng tỏ rằng hệ thống cấp bằng sáng chế hiện thời đã và đang hoàn thiện tốt hơn cách thức làm việc của mình.
Theo bà Lourie thì có thể người ta chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của việc xuất bản tri thức truyền thống và mang các tri thức đó đến tay các nhà giám định bằng sáng chế trên toàn thế giới. Bà nói “Liệu các tri thức truyền thống có được ghi lại, liệu kiến thức đó có thể không phải là đề tài của một bằng sáng chế, thậm chí liệu nó không được biết đến rộng rãi ở một nước công nghiệp”.
Hoa Kỳ đang khuyến khích các nước khác tạo cơ sở dữ liệu để đăng tải những tri thức truyền thống và bảo hộ chúng khỏi sự ăn cắp bằng sáng chế. Các cơ sở dữ liệu số sẽ cho phép các nhà giám định bằng sáng chế trên khắp thế giới tìm kiếm và kiểm tra các tri thức truyền thống. Một số các nước đang phát triển cũng đang tích cực đi theo con đường này. Theo Lourie thì Ấn Độ và Trung quốc đã tham gia vào việc phát triển các thư viện số có khả năng tìm kiếm những tri thức truyền thống của họ. Các nhà giám định bằng sáng chế của Hoa Kỳ thường xuyên kiểm tra các cơ sở dữ liệu của các nước đã được đưa vào sử dụng.
Bà Lourie thừa nhận rằng một số cộng đồng nắm giữ tri thức truyền thống có thể không muốn tiết lộ một số khía cạnh nhất định của tri thức truyền thống hoặc hạn chế cho các cá nhân hoặc nhóm cụ thể. Nếu vậy, bà nói, họ có thể muốn các biện pháp bảo hộ tri thức của họ như là bảo vệ bí mật kinh doanh. Ở Mỹ, xâm phạm đến bí quyết kinh doanh được coi là một dạng cạnh tranh không bình đẳng.
Trong nước Mỹ, một số lớp người Mỹ bản địa chỉ đăng các giá trị truyền thống của họ theo một cách chỉ đủ để viết tư liệu và để hạn chế người ngoài tiếp cận đến thông tin đó. Ví dụ, theo ông Wilson, các nhóm bộ lạc Tulalip ở bang Washington của Mỹ đã tạo ra một kho máy số phức tạp, mang tên là “các câu chuyện văn hoá”. Cái kho này sẽ phác họa người nào được quyền tiếp cận đến loại thông tin nào liên quan đến tri thức, lịch sử, văn hóa hoặc tập quán của họ. Một vài người có thể sử dụng để lấy thông tin không hạn chế trong khi những người khác, ví dụ như các nhà giám định bằng sáng chế, có thể lại bị giới hạn trong việc tiếp cận thông tin.
Một số cộng đồng nắm giữ tri thức truyền thống muốn chắc chắn rằng bất kỳ khám phá mới nào bắt nguồn từ tri thức truyền thống của họ đều phải chia sẻ cân bằng lợi ích. Các cộng đồng này có thể đàm phán những thỏa thuận chia sẻ cân bằng lợi ích dựa trên dạng hợp đồng, liên quan đến các sản phẩm mới hoặc các quá trình mới được tạo ra thông qua việc nghiên cứu tri thức truyền thống của họ. Tuy nhiên, bà Lourie lưu ý rằng điều này có thể là một sai lầm nếu hi vọng một khoản lợi kếch xù bất ngờ đến từ những hợp đồng như vậy. Cho đến nay, rất ít lợi ích về mặt tài chính nhờ việc thương mại hóa các tri thức truyền thống.
VĂN HÓA DÂN GIAN
Ở Mỹ, các hình thức thể hiện văn hóa dân gian được bảo hộ bằng rất nhiều cách, từ các Luật sở hữu trí tuệ theo tiêu chuẩn Mỹ đến các luật và các chương trình thiết kết riêng biệt để bảo vệ và bảo tồn di sản văn hóa của người dân bản xứ.
Một cơ chế bảo hộ là Đạo luật về nghề thủ công và nghệ thuật của người da đỏ (người Anh-điêng). Đây là một luật liên bang có hiệu lực vào năm 1935 và sửa đổi vào năm 1990. Luật Quảng cáo sự thật cũng cấm việc quảng cáo gây nhầm lẫn cho người sử dụng rằng các sản phẩm được trình bày là do người da đỏ làm. Nó bao gồm các nghề thủ công và nghệ thuật truyền thống đương đại và theo phong cách của nguời Ấn Độ và của người Ấn Độ, như là mây tre đan, mỹ nghệ, các mặt nạ, mền và chăn. Bất cứ cá nhân hoặc doanh nghiệp nào vi phạm Đạo luật này sẽ bị phạt dân sự hoặc phạt hình sự hoặc cả hai.
Cơ sở dữ liệu về Biển hiệu chính thức của người Mỹ bản địa được lập ra năm 2001 ở USPTO xoa dịu nỗi lo của người Mỹ bản địa về việc bảo tồn văn hóa dân gian. Biển hiệu chính thức không phải là những thiết kế được đặt tên; chúng là những biển hiệu được thừa nhận bởi các nhóm người Mỹ ở các bang khác nhau và được xác định như là biểu tượng chính thức cho cộng đồng bản xứ của họ. Sự có mặt của biển hiệu chính thức trong cơ sở dữ liệu đảm bảo rằng một người giám định sẽ có thể tìm ra bất cứ biển hiệu chính thức nào để có thể cản trở việc đăng ký nhãn hiệu khi nhãn hiệu đó không liên hệ với nhóm người trên.
Ngoài ra, tất cả đơn xin cấp nhãn hiệu có tên và chân dung có thể nhận ra được của người Mỹ bản địa, các biểu tượng được ghi nhận là có xuất xứ từ người bản địa và bất kỳ đơn nào khác mà USPTO tin vào, đều có thể kết luận rằng biển hiệu có ràng buộc với những người da đỏ được kiểm tra bởi nhân viên giám định tại USPTO, một người có chuyên môn sâu và thông thạo trong lĩnh vực này.
Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã áp dụng một số biện pháp khác để bảo vệ và bảo tồn các hình thức thể hiện văn hóa dân gian trong cộng đồng dân cư của họ. Trung tâm Đời sống dân gian Mỹ trong Thư viện của Quốc hội đã được Quốc hội Hoa Kỳ lập nên vào năm 1976 “để bảo tồn và trưng bày đời sống văn hóa của người dân Mỹ” thông qua các chương trình nghiên cứu, tư liệu, văn thư lưu trữ, các buổi biểu diễn trực tiếp, trưng bày ở triển lãm, các chương trình biểu diễn công khai và các chương trình đào tạo. Trung tâm này còn phối hợp với Phòng lưu trữ văn hóa dân gian của thư viện, được lập ra vào năm 1928 như là một kho chứa nhạc dân tộc Mỹ. Trung tâm này nắm giữ hơn một triệu bức ảnh, bản thảo, băng đĩa và các hình ảnh động.
Chính phủ Hoa Kỳ cũng duy trì trung tâm Smithsonia cho Di sản văn hóa và Đời sống dân gian để thúc đẩy sự hiểu biết nguồn gốc văn hóa ở Mỹ và ở nước ngoài. Bộ sưu tập bao gồm hàng ngàn đĩa, băng nói, đĩa nén, và cả những hình ảnh, băng ghi hình và phim hình ảnh động. Trung tâm cũng tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống hàng năm, sản xuất nhiều đĩa thu, tổ chức triển lãm, chiếu phim tư liệu và cung cấp nhiều tài liệu cho giáo dục.
Nỗ lực gần đây nhất của người Mỹ trong việc bảo tồn và duy trì văn hóa cho người da đỏ là việc thành lập viện bảo tàng quốc gia của người da đỏ trực thuộc Viện Smithsonian, mở cửa ở Washington, D.C., vào ngày 21 tháng 9 năm 2004. Đây là thư viện quốc gia đầu tiên ở Mỹ dành cho việc bảo tồn, nghiên cứu và trưng bày đời sống, ngôn ngữ, lịch sử và nghệ thuật của người da đỏ.
(Còn tiếp)
(Theo maxreading)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com